Tranh khắc gỗ hiện đại của Nhật Bản có mối liên hệ không thể xóa nhòa với các mùa. Vẻ đẹp hoàn hảo của những khoảnh khắc nhất thời trong tự nhiên đã được tìm kiếm và sử dụng để tạo ra hiệu ứng sâu sắc.
Yoshida Hiroshi (1876-1950) | Mùa xuân ở suối nước nóng (Onsen no haru) | Thời Showa, thế kỷ 20.
Yoshida Hiroshi (1876-1950) | Trong sân một ngôi đền (Shoro) | Thời Showa, thế kỷ 20.
Xuân 春
Mùa xuân hầu như luôn được báo hiệu bởi những cây anh đào nở rộ. Tác phẩm có tên tiếng Anh là Spring in a hot spring, sử dụng nghĩa kép của từ ‘mùa xuân’ [spring] trong tiếng Anh. Bố cục chặt chẽ được chi phối bởi cành anh đào lớn uốn cong. Trong sân một ngôi đền ghi lại cảnh giao mùa sau cơn mưa: những bông hoa ướt đẫm hơi nước, phản chiếu trong vũng nước bên dưới. Diễn giải của Yoshida về mùa xuân được ghi lại bằng các màu sắc phong phú in chồng lên nhau, làm cho mùa xuân bão hòa bởi ánh sáng của mặt nước.
Kawase Hasui (1883-1957) | Nara | Thời Showa, thế kỷ 20.
Tsuchiya Koitsu (1870-1949) | Yanagibashi | Thời Showa, thế kỷ 20.
Hạ 夏
Bạn gần như có thể cảm nhận được cái nóng của Nara, tác phẩm của Hasui, với màu xanh lá cây tươi sáng và xanh da trời. Một người phụ nữ và một cô bé mang theo dù để tránh cái nắng gay gắt của mùa hè ở Nhật Bản. Thông thường, cảnh đêm mô tả mọi người vui chơi cũng ám chỉ đến những tháng mùa hè, khi buổi tối đủ ấm để tận hưởng không khí mát mẻ trên những chiếc thuyền hoặc quán trà và nhà hàng ven sông, như trong Yanagibashi của Tsuchiya Koitsu.
Kawase Hasui (1883-1957) | Mưa cuối thu, Nanzenji Temple in Kyoto (Shigure no ato, Kyoto Nanzenji) | Thời Showa, thế kỷ 20.
Kawase Hasui (1883-1957) | Đền Asama ở Shizuoka (Shizuoka Asama jinja) | Thời Showa, thế kỷ 20.
Thu 秋
Từ ‘koyo’, hay lá đỏ, có lẽ là từ để chỉ mùa thu ở Nhật Bản. Trong cả hai bản in ở trên, những cây phong màu đỏ thẫm (momiji) được thể hiện trong quá trình chuyển đổi từ màu xanh lục sang màu đỏ của chúng.
Kawase Hasui (1883-1957) | Thôn Hataori ở Shiobara (Shiobara Hataori) | Thời Showa, thế kỷ 20.
Kawase Hasui (1883-1957) | Tuyết ở Mukojima (Yuki no Mukojima) | Thời Showa, thế kỷ 20.
Đông 冬
Kawase Hasui được mệnh danh là ‘Bậc thầy của tuyết’. Cảnh quan những trận bão tuyết đổ xuống các thị trấn tỉnh lẻ, như trong Thôn Hataori ở Shiobara, hoặc cách thể hiện gần như mang tính biểu tượng của Tuyết ở Mukojima, chỉ là hai ví dụ về hình dung của nghệ sĩ với những biểu hiện bất tận của tuyết. Như trong các cảnh tuyết ukiyo-e [phù thế hội], hay yukigeshiki trước đó, các cảnh tuyết đã cho thợ in và nghệ sĩ cơ hội tận hưởng việc sử dụng màu xanh đậm trên nền trắng của giấy để tạo hiệu ứng gợi cảm.
Nguồn: Sotheby’s
Lược dịch bởi Viet Art View