Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật ra đời nhằm tôn vinh, giới thiệu những tên tuổi tiêu biểu, nổi bật của nền Văn học Nghệ thuật thời đại Hồ Chí Minh. Đây là giải thưởng danh giá nhất đối với văn nghệ sĩ và luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt từ xã hội. Giải được trao cho tác giả thuộc các lĩnh vực: Âm nhạc, văn học, sân khấu, mỹ thuật, nhiếp ảnh, múa, điện ảnh, văn nghệ dân gian và kiến trúc.
Cho đến nay, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật được ký quyết định trao tặng 6 đợt vào các năm 1996, 2000, 2005, 2012, 2017, 2022.
Riêng trong lĩnh vực mỹ thuật, đã có 20 họa sĩ được vinh dự nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật.
Đợt I có 8 tác giả và cụm tác phẩm bao gồm các họa sĩ: Tô Ngọc Vân, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Trần Văn Cẩn, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Phan Chánh, Diệp Minh Châu.
TÔ NGỌC VÂN (1906 – 1954)
Họa sĩ Tô Ngọc Vân (1906 – 1954)
Tiểu sử:
- Tô Ngọc Vân sinh ngày 15/12/1906
- Quê quán: Xuân Cầu, Nghĩa Trụ, Mỹ Văn, Hưng Yên.
- Ông tốt nghiệp khóa II (1926 – 1931) Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
- 1933 – 1935: Dạy học tại Phnom Penh
- 1936: Trở về Việt Nam
- 1939 – 1945: Dạy học tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
- 1946: Tham gia kháng chiến chống Pháp
- 1950: Phụ trách Trường Mỹ thuật trong kháng chiến
- Ông từng cộng tác với nhiều báo như: Nhân Dân, Phong Hóa, Ngày Nay, Thanh Nghị với các bút danh Tô Tử, Ái Mỹ
- Ông hi sinh năm 1954 khi tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ
- Tên của ông được đặt cho đường phố tại Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Tp Huế, Quy Nhơn, Tp Vĩnh Yên, Tp Hải Dương, Tp Bắc Ninh và một miêng núi lửa ở trên sao Thủy
Tôn vinh:
- Huân chương độc lập hạng Nhất
- Huân chương kháng chiến hạng Nhì
- Bằng danh dự của Hội các họa sĩ Pháp và Huy chương Vàng Triển lãm thuộc địa tại Paris 1932
- Giải nhất Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc 1954 tại Hà Nội
Họa sĩ Tô Ngọc Vân được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật đợt I năm 1996 cho các tác phẩm: Hồ Chủ Tịch ở Bắc Bộ phủ (1946), Hồ Chủ Tịch làm việc (1948), Xưởng quân giới (1951), Bộ đội nghỉ chân bên đồi (1953), Bừa trên đồi (1953), Bộ tranh ký họa về nông dân trong cải cách ruộng đất (1953), Bộ tranh ký họa về bộ đội trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954).
Hồ Chủ Tịch ở Bắc bộ phủ. 1946. Sơn dầu. 73 × 95 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Hồ Chủ Tịch làm việc. 1948. Khắc gỗ. 49 × 35 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Xưởng quân giới. 1951. Sơn dầu
Bừa trên đồi. 1953. Bột màu
Bộ đội nghỉ chân bên đồi. 1953. Sơn mài. 35 × 43 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Bộ tranh ký họa về nông dân trong cải cách ruộng đất (1953)
Bộ tranh về bộ đội trong chiến thắng Điện Biên Phủ (1954)
NGUYỄN SÁNG (1923 – 1988)
Họa sĩ Nguyễn Sáng (1923 – 1988)
Tiểu sử:
- Họa sĩ Nguyễn Sáng sinh ngày 01/8/1923
- Quê quán: Điều Hòa, Mỹ Tho (nay thuộc Tiền Giang)
- Ông học Trường Mỹ thuật Gia Định khóa 1936 – 1938, sau đó học Trường Mỹ thuật Đông Dương khóa XIV (1941 – 1945)
- 1945: Tham gia cướp chính quyền tại phủ Khâm sai Hà Nội. Vẽ tranh tuyên truyền cổ động, tham gia triển lãm mừng ngày cách mạng thành công, vẽ mẫu giấy bạc cho bộ Tài chính của chính phủ lâm thời
- 1946: Ở lại miền Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp
- 1950 – 1952: Công tác tại ban Tuyên huấn Tổng cục Chính Trị, làm tranh li – tô tuyền truyền chiến thắng, tranh khắc gỗ.
- 1953- 1954: Tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau đó về Hà Nội sáng tác một loạt tranh sơn mài về đề tài lực lượng vũ trang trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, Cao Bắc Lạng trong kháng chiến ở Việt Bắc
- 1954 – 1986: Sống và làm việc ở Hà Nội.
- Ông mất ngày 12/12/1988
- Tên của ông được đặt cho đường phố ở Mỹ Tho (Tiền Giang), Tp Hồ Chí Minh và Đà Nẵng
Tôn vinh:
- Huân chương độc lập hạng Ba
- Giải nhất triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc 1954
Họa sĩ Nguyễn Sáng được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật đợt I năm 1996 cho các tác phẩm: Giặc đốt làng tôi (1954), Bộ đội trú mưa (1960), Kết nạp Đảng trong chiến hào Điện Biên Phủ (1964), Thành đồng Tổ quốc (1967 – 1978), Thiếu nữ bên hoa sen (1972).
Giặc đốt làng tôi. 1954. Sơn dầu. 85,7 × 129,5 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Bộ đội trú mưa. 1960. Sơn mài. 70 × 100 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Thành đồng Tổ quốc. 1967 – 1978. Sơn mài. 120× 240 cm. Sưu tập Bảo tàng Mỹ thuật Tp Hồ Chí Minh. Bảo vật Quốc gia năm 2013
Kết nạp Đảng trong chiến hào Điện Biên Phủ. 1964. Sơn mài. 112,3 × 180 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN. Bảo vật Quốc gia năm 2013
Thiếu nữ bên hoa sen. 1972. Sơn dầu. 94,5 × 128 m. Sưu tập Bảo tàng MTVN
NGUYỄN TƯ NGHIÊM (1922 – 2016)
Họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm (1922 – 2016)
Tiểu sử:
- Nguyễn Tư Nghiêm (bút danh: Nghe) sinh ngày 20/10/1922
- Quê quán: Nam Trung, Nam Đàn, Nghệ An
- Ông học Trường Mỹ thuật Đông Dương khóa XV (1941 – 1946)
- Ông tham gia cách mạng từ năm 1945
- Nguyên Ủy viên Ủy ban Giải phóng Huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
- 1948 – 1951: Phụ trách Xưởng tranh phổ biến Hội Văn nghệ Việt Nam
- 1957 – 1984: Giảng viên trường Mỹ thuật thuật Việt Nam ở Việt Bắc
- Nguyên giảng viên trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội
- Ủy viên Ban Chấp hành Hội Mỹ thuật Việt Nam khóa I (1957 – 1983)
- Họa sĩ tổ sáng tác của Hội Mỹ thuật Việt Nam đã nghỉ hưu
- Ông mất ngày 15/6/2016 tại Hà Nội
- Tên của ông được đặt cho đường phố ở TP Hồ Chí Minh và Đồng Hới (Quảng Bình)
Tôn vinh:
- Huân chương kháng chiến hạng Nhì
- Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất
- Gải nhất Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc năm 1948, 1990
- Giải chính thức Triển lãm Mỹ thuật Quốc tế hội họa hiện thực thường kỳ 3 năm tại Sofia – Bulgaria năm 1958
- Giải chính thức Triển lãm Mỹ thuật Quốc tế hội họa và Đồ họa lần I, Hà Nội năm 1987
Họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật đợt I năm 1996 cho các tác phẩm: Con nghé (1957), Đêm giao thừa (1957), Nông dân đấu tranh chống thuế (1960), Tranh Gióng (1976), Điệu múa cổ (1983), Thánh Gióng (1990).
Con nghé. 1957. Sơn mài. 45,5 × 63 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Điệu múa cổ. 1970. Sơn mài. 50,3 × 75 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Gióng. 1974. Sơn mài. 90 × 60 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Gióng II. 1990. Sơn mài. 90 × 120 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN. Bảo vật Quốc gia
Đêm giao thừa. 1957. Sơn mài. 70,3 × 150,5 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Nông dân đấu tranh chống thuế. 1960. Sơn mài. 100× 150 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
TRẦN VĂN CẨN (1910 – 1994)
Họa sĩ Trần Văn Cẩn (1910 – 1994)
Tiểu sử:
- Họa sĩ Trần Văn Cẩn sinh ngày 13/8/1910 tại xã Kiến An (nay thuộc quận Kiến An, thành phố Hải Phòng)
- Quê quán: Tiên Phong, Từ Sơn, Bắc Ninh
- Tốt nghiệp thủ khoa Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khóa VI (1931 – 1936)
- Từng giữ các vị trí: Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam, Tổng thư ký Hội Mỹ thuật Việt Nam khóa I, Chủ tịch Hội nghệ sĩ tạo hình Việt Nam khóa II, Phó chủ tịch Ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam (1954 – 1969)
- Ông mất ngày 31/7/1994 tại Hà Nội
- Tên của ông được đặt cho đường phố tại Hà Nội, Hải Phòng, Tp Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Tp Bắc Ninh
Tôn vinh:
- Huân chương Độc lập hạng Nhất
- Huân chương Lao động hạng Nhì
- Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì
- Giải nhất triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1946, 1960, 1976, 1980
- Danh hiệu Nhà giáo nhân dân
- Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Mỹ thuật Cộng hòa Dân chủ Đức
Họa sĩ Trần Văn Cẩn được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật đợt I năm 1996 cho các tác phẩm: Vẽ mẫu quốc huy nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1955), Tát nước đồng chiêm (1958), Công nhân mỏ (1960), Nữ dân quân miền biển (1960), Mùa đông sắp đến (1961), Thằng cu đất mỏ (1965), Mưa mai trên sông Kiến (1969).
Mẫu quốc huy nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 1955. Mực. 37,5 × 40 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Tát nước đồng chiêm. 1958. Sơn mài. 60,5 × 92 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Nữ dân quân miền biển. 1960. Sơn dầu. 60 × 81,5 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Thằng cu đất mỏ. 1965. Sơn mài. 54 × 75,6 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Đan len. 1960. Sơn mài. 74,8 × 100,2 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Mưa mai trên sông Kiến. 1969. Sơn mài. 60 × 82 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
BÙI XUÂN PHÁI (1920 – 1988)
Họa sĩ Bùi Xuân Phái (1920 – 1988)
Tiểu sử:
- Bùi Xuân Phái sinh ngày 01/9/1920
- Quê quán: Làng Kim Hoàng, Hà Đông, Hà Tây (nay là Hà Nội)
- Tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khóa XV (1941 – 1945)
- 8/1945: Tham gia cách màn tháng Tám ở Hà Nội
- 1956 – 1957: Giảng viên trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam
- Từ 1960: Minh họa cho tuần báo Văn nghệ và nhiều báo khác
- 1984: Triển lãm cá nhân đầu tiên và duy nhất khi ông còn sống, tại Hà Nội
- Ông mất ngày 24/6/1988 tại Hà Nội
- Tên ông được đặt cho đường phố tại Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Tp Đà Nẵng, thị xã Hương Thủy (Thừa Thiên Huế), Bà Rịa – Vũng Tàu, Tp Quy Nhơn, Tp Nam Định, Tp Bắc Ninh
Tôn vinh:
- Huy chương vì sự nghiệp Mỹ thuật năm 1997
- Giải thưởng triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc năm 1946, 1980
- Giải thưởng đồ họa Leipzig (Đức) 1982
- Giải thưởng Mỹ thuật Thủ đô các năm: 1969, 1981, 1983, 1984
Họa sĩ Bùi Xuân Phái được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật đợt I năm 1996 cho các tác phẩm: Hà Nội kháng chiến (1966), Vợ chồng chèo (1967), Sân khấu chèo (1968), Hóa trang sân khấu chèo (1968), Xe bò trong phố cổ (1972), Phố cổ Hà Nội (1972), Phố vắng (1981), Trước giờ biểu diễn (1984).
Phố Hà Nội. 1946. Sơn dầu. 39 × 56 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Phố Gia Ngư. 1980. Sơn dầu. 57,5 × 76 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Chèo. 1966. Sơn dầu. 30 × 40 cm
Trước giờ biểu diễn I. 1984. Sơn dầu. 60 × 80,5 cm
NGUYỄN ĐỖ CUNG (1912 – 1977)
Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung (1912 – 1977)
Tiểu sử:
- Nguyễn Đỗ cung sinh tháng 2 năm 1912
- Quê quán: Xuân Tảo, Xuân Đỉnh, Từ Liêm, Hà Nội
- Tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khóa V (1929 – 1934)
- 1945: Thành viên Ban chấp hành Hội văn hóa Cứu quốc, sáng tác nhiều tranh cổ động tuyên truyền cho Cách mạng
- 1946: Tình nguyện tham gia đoàn quân Nam tiến, hoạt động văn hóa nghệ thuật ở liên khu V và mở nhiều lớp dạy vẽ ngắn ngày, góp phần xây dựng được một đội ngũ họa sĩ mới
- 1949: Trở ra Việt Bắc, công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam
- 1957: Ủy viên Ban Chấp hành sau đó là Ban Thường vụ Hội Mỹ thuật Việt Nam
- 1962 – 1973: Viện trửng Viện Mỹ thuật (Bộ Văn Hóa), công tác tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, góp công lao trong việc xây dựng bảo tàng; tham gia phần thiết kế mỹ thuật cho công trình Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Ông mất ngày 22/9/1977 tại Hà Nội
- Tên họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung được đặt cho đường phố ở Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Đã Nẵng, Huế, Tp Nha Trang
Vinh danh:
- Huân chương Lao động hạng Nhất
- Huân chương kháng chiến hạng Ba
- Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất
- Giải thưởng ngoại hạng triển lãm mỹ thuật SADEAI năm 1936
- Giải A triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc năm 1976
- Giải A triển lãm Mỹ thuật Thủ đô năm 1994
Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật đợt I năm 1996 cho các tác phẩm: Chân dung Hồ Chủ Tịch (1946), Du kích La Hai (1947), Dân quân tập bắn (1948), Học hỏi lẫn nhau (1960), Công nhân cơ khí (1976), Tan ca mời chị em đi họp để thi thợ giỏi (1976).
Chân dung Hồ Chủ Tịch. 1946. Mực nho. 39 × 56 cm
Nữ du kích Phú Yên. Bột màu. 48 × 34 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Du kích Lai Ha. 1947. Bột màu. 39 × 56 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Công nhân cơ khí. 1976. Sơn dầu. 66 × 92 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Tan ca mời chị em đi họp để thi thợ giỏi. 1960. Sơn dầu. 103 × 117,5 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
NGUYỄN PHAN CHÁNH (1892 – 1984)
Họa sĩ Nguyễn Phan Chánh (1892 – 1984)
Tiểu sử:
- Họa sĩ Nguyễn Phan Chánh (bút hiệu: Hồng Nam) sinh ngày 21/7/1892
- Quê quán: Thôn Tiền Bạt, xã Trung Tiết, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh
- Tốt nghiệp khóa I (1925 – 1930) Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
- 1931: Một số tranh lụa của ông được Hiệu trưởng Victor Tardieu mang về Pháp giới thiệu tại triển lãm Paris. Lần đầu tiên công chúng được biết đến tranh lụa Việt Nam qua các tác phẩm của Nguyễn Phan Chánh
- 1934 – 1940: Có tranh lụa được trưng bày ở Ý, Mỹ và Nhật Bản
- 1945: Tham gia mặt trận Văn hóa Văn nghệ Hà Tĩnh, Ủy viên Thường vụ Hội Văn hóa Cứu quốc Hà Tĩnh
- 1955: Ông ra Hà nội và giảng dạy tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội
- 1957 – 1983: Tham gia Ban Chấp hành Hội Mỹ thuật Việt Nam
- 1982: Nhân dịp mừng thọ họa sĩ tuồi 90, Bộ Văn Hóa đã tổ chức triển lãm tranh lụa của ông tại Liên Xô, Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan, Rumani và nhiều nước khác
- Ông mất ngày 22/11/1984 tại Hà Nội
- Tên họa sĩ Nguyễn Phan Chánh đã được đặt cho các đường phố tại Hà Tĩnh, Tp Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế, Nha Trang
Tôn Vinh:
- Huân chương Độc lập hạng Nhất
- Huân chương Lao động hạng Nhất
Họa sĩ Nguyễn Phan Chánh được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật đợt I năm 1996 cho các tác phẩm: Chơi ô ăn quan (1931) và Cô gái rửa rau (1931), Bữa cơm mùa thắng lợi (1960), Sau giờ trực chiến (1967), Trăng tỏ (1967), Trăng lu (1970), Chân dung tự họa (1976).
Rửa rau cầu ao. 1931. Lụa. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Sau giờ trực chiến. 1967. Lụa. 52 × 73 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Chơi ô ăn quan. 1931. Lụa. 62 × 58 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Chân dung tự họa. 1976. Lụa
Bữa cơm mùa thắng lợi. 1960. Lụa. 63 × 78 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Trăng tỏ. 1967. Lụa
Trăng lu. 1970. Lụa
DIỆP MINH CHÂU (1919 – 2002)
Họa sĩ Diệp Minh Châu (1919 – 2002)
Tiểu sử:
- Diệp Minh Châu sinh ngày 10/2/1919
- Quê quán: Nhơn Thạnh, Giồng Trôm, Bến Tre
- 1940 – 1943: Học Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương khóa XIV (1941 – 1945)
- 1945: Tham gia giành chính quyền tại thị xã Bến Tre
- 1946: Vào Đảng và làm trưởng ban trừ gian quận Châu Thành, Bến Tre
- 1946 – 1947: Trưởng ban phóng sự mặt trận và trưởng ban hội họa liên khu 8, đi thực tế theo Vệ quốc đoàn
- 1947 – 1949: Trưởng phòng hội họa của viện Văn hóa kháng chiến Nam Bộ
- 3 – 7/1951: Được ở gần Bác Hồ, vẽ được nhiều tranh về Bác ở Việt Bắc
- 1951 – 1955: Học vẽ, tốt nghiệp Viện Hàn lâm Mỹ thuật Tiệp Khắc
- 1957 – 1964: Giảng viên Trường Cao Đẳng Mỹ thuật Việt Nam
- 1962 – 1975: Trưởng ngành điêu khắc – Hội Mỹ thuật Việt Nam
- 1978 – 1980: Đại biểu Quốc hội khóa 7, Phó chủ tịch Hội Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh, Tổng thư ký Hội Mỹ thuật Tp Hồ Chí Minh
- Ông mất ngày 12/7/2002 tại Tp Hồ Chí Minh
- Tên họa sĩ, nhà điêu khắc Diệp Minh Châu được đặt cho một trường trung học phổ thông tại quê nhà Bến Tre cùng đường phố ở Tp Hồ Chí Minh, Đà Nẵng
Tôn vinh:
- Huân chương kháng chiến hạng Nhì
- Huân chương độc lập hạng Ba
- Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng Nhất
- Giải nhất về tượng tại Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc năm 1958 với tác phẩm tượng Võ Thị Sáu
- Giải nhất về tượng tại Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc năm 1980 với tác phẩm Bác Hồ bên suối Lênin
Họa sĩ – nhà điêu khắc Diệp Minh Châu được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật đợt I năm 1996 cho các tác phẩm: Tranh Hồ Chủ Tịch và thiếu nhi Trung Nam Bắc (1947); các tượng: Hương sen (1957), Võ Thị Sáu (1958), Bác Hồ bên suối Leenin (1980), Bác hồ với thiếu nhi (1993).
Hồ Chủ Tịch và thiếu nhi Trung Nam Bắc. 1947. Tranh vẽ bằng máu trên lụa. Sưu tập Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Hương sen. 1957. 72 cm
Bác Hồ bên suối Lênin. 1980. Thạch cao. 108 × 82 × 72 cm. Sưu tập Bảo tàng MTVN
Bác Hồ với thiếu nhi. 1993. Đồng. H 400 cm
Tư liệu:
Sách “Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật” , Nhà xuất bản Trẻ, năm 2020