1. Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng là một phong trào nghệ thuật của nước Mỹ
Thuật ngữ Biểu hiện Trừu tượng dùng để chỉ các họa sĩ Mỹ trong lĩnh vực trừu tượng những năm 1940 và 1950. Là phong trào đầu tiên phát triển ở Mỹ, nó đặc trưng bởi sự từ chối các tiêu chuẩn nghệ thuật truyền thống và tập trung vào tính tự phát và sự ứng biến. Kích thước hoành tráng và dựa trên trải nghiệm của từng cá nhân, các tác phẩm theo trường phái Biểu hiện Trừu tượng từ trước đến nay luôn thấm nhuần tính Mỹ.
Trong khi Ab Ex [Abstract Expressionism, chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng] phát triển trên đất Mỹ, nhiều người đến với nó là những người nhập cư từ châu Âu, thoát khỏi tình trạng hỗn loạn ở quê nhà. Hans Hofmann, một nghệ sĩ tiên phong và một giáo viên hội họa có ảnh hưởng, đến từ Đức; trong khi Willem de Kooning đến từ Hà Lan và Mark Rothko đến từ Latvia.
HANS HOFMANN, GLORIA IN EXCELSIS, 1963. SƠN DẦU TRÊN TOAN. 50 × 40 IN (127 × 101.6 CM)
ƯỚC TÍNH: $3,500,000-$5,500,000
2. Thuật ngữ ‘Biểu hiện Trừu tượng’ được đặt ra bởi Robert Coates, nhà phê bình nghệ thuật của tờ The New Yorker
Trong một bài đánh giá năm 1946 về tác phẩm của Arshile Gorky, Jackson Pollock và Willem de Kooning cho The New Yorker, nhà phê bình nghệ thuật Robert Coates đã sử dụng thuật ngữ ‘chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng’ để mô tả sự hòa trộn phong cách của các họa sĩ. Thuật ngữ này sau đó sẽ được áp dụng cho một loạt các họa sĩ Mỹ có tác phẩm thể hiện cái tôi cá nhân.
Những nghệ sĩ này còn được gọi là ‘Trường phái New York.’ Một số nghệ sĩ cho rằng tác phẩm của họ không trừu tượng mà là đại diện cho tiềm thức. Trường phái New York bao gồm nhiều phong cách và sự nảy nở phong phú đã diễn ra ở thành phố New York trong những năm sau Thế chiến thứ hai.
3. Phong trào là một phản ứng với sự hỗn loạn của thời đại
Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng ra đời sau một trong những kỷ nguyên hỗn loạn nhất của lịch sử, được báo hiệu bởi cuộc Đại suy thoái và sự tàn phá của Thế chiến thứ hai. ‘Chúng tôi cảm thấy cuộc khủng hoảng đạo đức của một thế giới hỗn loạn, một thế giới bị phá hủy bởi cuộc Đại suy thoái và Thế chiến khốc liệt,’ Barnett Newman viết, “và vào thời điểm đó, không thể vẽ được những bức tranh như chúng tôi đã vẽ- những bông hoa, những bức khoả thân nằm nghiêng, những người chơi đàn cello.”
CLYFFORD STILL, PH-69, 1946. SƠN DẦU TRÊN TOAN. 62 × 43 IN (157.8 × 109.5 CM)
ƯỚC TÍNH: $12,000,000-18,000,000
Trong khi đó, công chúng Mỹ được tiếp xúc với chủ nghĩa hiện đại của châu Âu qua các cuộc triển lãm đột phá tại những nơi như Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại và Bảo tàng Nghệ thuật Sống, bảo tàng nghệ thuật đương đại và hiện đại đầu tiên của New York. Bị ảnh hưởng bởi các nghệ sĩ như Picasso và Matisse, tìm kiếm một phương tiện biểu đạt phi chính trị, những người theo chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng đã tạo ra một ngôn ngữ hình ảnh mang tính cách mạng xuất phát từ nội tại.
4. Nó được sử dụng như một vũ khí Chiến tranh lạnh
Khi Chiến tranh Lạnh tiếp tục kéo dài vào những năm 1950 và căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô leo thang, văn hóa đã trở thành một trụ cột cho chính phủ Hoa Kỳ. Nhiều người cho rằng nghệ thuật hiện đại là hiện thân của tự do và chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng nói riêng, với sự nhấn mạnh vào việc thể hiện cá nhân, là một tương phản hoàn hảo đặt cạnh nghệ thuật và cấu trúc chính trị cứng nhắc của chủ nghĩa Cộng sản.
Mặc dù những nghệ sĩ Biểu hiện Trừu tượng không hoạt động chính trị, tác phẩm của họ đã được chính phủ ủng hộ một cách không chủ tâm. Trong suốt Chiến tranh Lạnh, MoMA, dường như dưới sự trợ giúp của CIA, đã thúc đẩy sự công nhận toàn cầu đối với hội họa Mỹ. Một triển lãm có ảnh hưởng của MoMA, ‘Hội họa mới của nước Mỹ’, đã diễn ra trên khắp châu Âu từ năm 1958 đến 1959, bao gồm Berlin, Milan, Paris và London.
Đó là một hành trình đắt đỏ, một sự kiện mà các thành phố nơi nó diễn ra không thể đủ khả năng để thực hiện. Trong khi ban đầu công chúng tin rằng nó có thể được thực hiện thông qua một khoản tài trợ từ triệu phú Jules Fleishmann, nhà báo người Anh Frances Stonor Saunders sau đó đã phát hiện ra rằng số tiền thực sự đến từ Quỹ Farfield, một cơ quan tài trợ của CIA.
GRACE HARTIGAN, NHỮNG VŨ CÔNG MÊ-XI-CÔ, 1949. SƠN DẦU TRÊN TOAN
40 × 40 IN (101.6 × 101.6 CM). ƯỚC TÍNH: $200,000-$300,000
5. Phong trào đánh dấu sự nổi lên của New York, một trung tâm của nghệ thuật trên toàn thế giới
Sự ra đời của chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng kéo theo sự thay đổi ảnh hưởng trong thế giới nghệ thuật. Paris, từng là trung tâm văn hóa không thể tranh cãi, đang phục hồi sau sự tàn phá của Thế chiến thứ hai. Nhiều nghệ sĩ đã rời châu Âu đến New York vào những năm 1930 khi chủ nghĩa phát xít hoành hành khắp lục địa, nhưng thậm chí mọi người đã đến nhiều hơn nữa sau chiến tranh.
Nước Mỹ đang bùng nổ cả về kinh tế và văn hóa, với New York là trung tâm của nó. Việc thành lập Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại vào năm 1929 đã mở đường cho chủ nghĩa hiện đại được ủng hộ toàn thành phố, và những người bảo trợ quan trọng như Peggy Guggenheim, một nhà hảo tâm của các nghệ sĩ như Pollock và Rothko, đã giúp củng cố sự thay đổi này.
JOAN MITCHELL (1925-1992), CONTE BLEU, 1962. SƠN DẦU TRÊN TOAN. 39¼ × 28¾ IN
(99.2 × 71.8 CM). ƯỚC TÍNH: $2,500,000-3,500,000
6. Hội họa hành động là một trong những hình thức trung tâm của Biểu hiện Trừu tượng
Phong trào Biểu hiện Trừu tượng thường được chia thành hai nhóm lớn: họa sĩ hành động và họa sĩ trường màu. Các họa sĩ hành động, như Pollock và de Kooning, tập trung vào ‘hành động’ khi vẽ, truyền tải năng lượng và chuyển động thông qua thao tác của họ với chất liệu. Như nhà phê bình Harold Rosenberg, người đã đặt ra thuật ngữ ‘hội họa hành động’ trong một bài báo năm 1952 cho Art News, đã viết, ‘Những gì được đưa lên tấm toan không phải là một bức tranh mà là một sự kiện.’
Trong tập hợp con này, mỗi nghệ sĩ có một phong cách đặc trưng. Pollock đã tạo ra những bức tranh nhỏ giọt nổi tiếng của mình bằng cách rót màu hoặc cho chúng rơi lộp độp trên bề mặt tấm toan sắp xếp trên sàn nhà. Ông tránh dùng cọ, thay vào đó ông dùng các thanh hoặc các ống hút, di chuyển chúng qua bề mặt bức tranh nhịp nhàng, uyển chuyển.
HELEN FRANKENTHALER, MIỆNG NÚI LỬA MÀU VÀNG, 1963-1964. SƠN DẦU TRÊN TOAN
80¾ × 68¾ IN (205 × 174.6 CM). ƯỚC TÍNH: $1,500,000-$2,000,000
Kỹ thuật được ưa chuộng của De Kooning cuối những năm 1950, được nhà phê bình Thomas Hess gọi là ‘quét bởi toàn bộ cánh tay’, được đặc trưng bởi các nét màu rộng, kết quả là trừu tượng hoàn toàn. Mặt khác, Helen Frankenthaler đã phát minh ra kỹ thuật ‘ngâm-nhuốm’, trong đó một lớp sơn mỏng được phủ lên tấm toan. Giống như Pollock, Frankenthaler trải các tấm toan trên sàn nhà, để màu ngấm vào bề mặt. Sau đó, cô sẽ thao tác bằng cọ, dụng cụ lăn hoặc nghiêng tấm toan theo nhiều hướng khác nhau.
7. Hội họa trường màu cũng là một biến thể chính
Trong cuốn sách ‘Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng của mình’, học giả Ivring Sandler đã mô tả Mark Rothko, Clyfford Still và Barnett Newman là ‘họa sĩ trường màu’. Những nghệ sĩ này sử dụng những mảng màu lớn để thể hiện cảm xúc và khơi gợi suy tưởng.
MARK ROTHKO, VÔ ĐỀ, 1969. ACRYLIC, GIẤY TRÊN TOAN. 48½ × 40½ IN
(123.2 × 102.9 CM). ƯỚC TÍNH: $15,000,000-$20,000,000
Những nghệ sĩ này làm nên tiền thân của phong trào hội họa Trường màu thuần túy trừu tượng của Mỹ phát triển trong những năm 1960, như đã thấy trong tác phẩm của các nghệ sĩ như Morris Louis và Sam Gilliam. Những họa sĩ Trường màu sau này tập trung vào hình thức như phần đối lập với phẩm chất tinh thần của màu sắc.
Frankenthaler phần lớn được ghi nhận vì đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ hội họa Ab Ex sang Trường màu.
8. Mặc dù đa dạng về phong cách, các nghệ sĩ của phong trào đã thống nhất bởi vị trí và mối quan tâm của họ
Tiêu chuẩn của chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng không giống những trường phái hội họa khác bởi vì nó không phải là một phong trào thống nhất. Phản ứng của mỗi nghệ sĩ đối với thế giới của họ cũng khác biệt và phức tạp.
Trong khi cảm giác trầm mặc của những người được gọi là họa sĩ trường màu có vẻ không tương thích với các tác phẩm tự nhiên của các họa sĩ hành động, những phong cách riêng biệt này có liên quan với nhau khi các họa sĩ đều theo đuổi việc mô tả tiềm thức. Mong muốn thể hiện những phần nội tại và khơi gợi cảm xúc đã gắn kết họ dưới chiếc ô Biểu hiện Trừu tượng.
WILLEM DE KOONING, VÔ ĐỀ III, 1978. SƠN DẦU TRÊN TOAN. 70 × 80 IN (177.8 × 203.2 CM). ƯỚC TÍNH THEO YÊU CẦU
Họ cũng là một mối theo thời gian và địa điểm. Trong suốt những năm 1940 và 1950, nhiều người theo trường phái Biểu hiện Trừu tượng sống ở Làng Greenwich của New York. Họ sẽ tụ tập tại các địa điểm giải trí địa phương như Cedar Tavern, nơi họ thư giãn, giao lưu và thảo luận về nghệ thuật.
Những cuộc tụ họp này, diễn ra trong thời gian mà Elaine de Kooning từng mô tả là ‘tiệc rượu kéo dài một thập kỷ,’ đôi khi sẽ kết thúc bằng những cuộc ẩu đả, và Pollock nổi tiếng là bị cấm vào Cedar Tavern suốt đời sau khi xé toạc một cánh cửa ở đó khỏi bản lề của nó.
9. Biểu hiện Trừu tượng thường được định nghĩa bởi nam tính, tuy nhiên danh sách nghệ sĩ quan trọng của nó bao gồm nhiều nghệ sĩ nữ có ảnh hưởng
Trong khi nhiều nghệ sĩ nổi tiếng nhất gắn liền với chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng, Pollock, de Kooning, Franz Kline, là nam, một đội ngũ nữ nghệ sĩ đáng kể đã hoạt động trong phong trào này. Mặc dù một số, như Grace Hartigan, Joan Mitchell, Elaine de Kooning và Lee Krasner, đã nhận được sự hoan nghênh, hầu hết đã bị lịch sử bỏ qua, vẫn còn lại những chú thích lờ mờ của một nhóm lớn hơn trong nhiều thập kỷ.
JOAN MITCHELL, VÔ ĐỀ, 1989. BỘ ĐÔI SƠN DẦU TRÊN TOAN. MỖI PHẦN: 76¾ × 51¼ IN (194.9 × 130.2 CM), TOÀN THỂ: 76¾ × 102⅞ IN (194.9 × 260.7 CM)
Ngay từ ban đầu, nhiều nghệ sĩ nữ trong số này đã nghiên cứu và triển lãm cùng với những nghệ sĩ nam, nhưng những người gác cổng của thế giới nghệ thuật ngày càng thương mại, thậm chí cả những chủ gallery là nữ như Betty Parsons, cuối cùng vẫn loại trừ họ. Chỉ gần đây, những đóng góp của họ mới được ghi nhận rộng rãi hơn, chẳng hạn như trong triển lãm năm 2016 tại Bảo tàng Nghệ thuật Denver mang tên ‘Phụ nữ của Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng’.
10. Những người theo trường phái Biểu hiện Trừu tượng đã lấy cảm hứng từ các phong trào đa dạng trong lịch sử nghệ thuật
Mặc dù không có một phong trào cho chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng phát triển từ đó, nhưng chủ nghĩa Siêu thực thường được coi là một ảnh hưởng trung tâm. Khi chủ nghĩa phát xít lan rộng khắp châu Âu trong suốt những năm 1930, nhiều nghệ sĩ kiệt xuất đã đến New York. Trong số họ là những nhân vật có ảnh hưởng trong phong trào Siêu thực như Max Ernst, Yves Tanguy và André Breton.
Sự quan tâm của những người theo chủ nghĩa Siêu thực đối với tiềm thức và trạng thái của giấc mơ đã ảnh hưởng trực tiếp đến cách tiếp cận tự phát của Biểu hiện Trừu tượng đối với sáng tạo. Điều này có lẽ rõ ràng nhất trong các bức tranh ‘nhỏ giọt’ của Pollock, một nhánh của khái niệm siêu thực về ‘chủ nghĩa tự động’.
FRANZ KLINE, PENNSYLVANIA, 1954. SƠN DẦU, THAN CỦI TRÊN TOAN. 45 × 62¾ IN (114.3 × 159.5 CM). ƯỚC TÍNH: $4,000,000-6,000,000
Các nghệ sĩ Ab Ex khác đã vẽ theo nhiều phong cách khác nhau qua các thời đại. Mitchell, chẳng hạn, bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các họa sĩ Hậu Ấn tượng như Matisse; trong khi Kline gợi nhớ đến Tintoretto, Rembrandt và Goya. Các dải màu của Rothko được lấy cảm hứng từ cách trang trí theo phương ngang của những chiếc bình Hy Lạp, trong khi kỹ thuật ‘nhỏ giọt’ của Pollock được hình thành sau khi xem trình diễn tranh cát của dân tộc Navajo.
11. Nhạc Jazz cũng là một nguồn ảnh hưởng
Nhiều nghệ sĩ Biểu hiện Trừu tượng đã lấy cảm hứng từ jazz- những đặc tính ứng biến, hình thức tự do phản ánh các nguyên lý. Trong tiêu đề của các bức tranh và chú giải của riêng họ, các nghệ sĩ Biểu hiện Trừu tượng thường đề cập đến nhạc jazz.
Norman Lewis thường mô tả các câu lạc bộ nhạc jazz trong khu phố Harlem của mình qua những bức tranh trừu tượng theo lối hành động. De Kooning nổi tiếng với việc so sánh kỹ thuật của mình và kỹ thuật của Miles Davis, nói rằng, “Miles Davis uốn cong các nốt nhạc. Anh ấy không chơi chúng, anh ấy uốn cong chúng. Tôi thì uốn cong màu.”
WILLEM DE KOONING, VÔ ĐỀ, 1977. SƠN DẦU, GIẤY TRÊN TOAN. 41 3/8 × 30 IN
(104.9 × 76.2 CM). ƯỚC TÍNH: $1,000,000-$1,500,000
Pollock cũng là một người hâm mộ nhạc jazz nổi tiếng, và tính trữ tình của thể loại này xuất hiện trong nhiều tác phẩm của ông. Vợ ông, họa sĩ Lee Krasner, từng nói, ông ‘sẽ chìm đắm trong việc nghe các đĩa nhạc jazz, không chỉ trong ngày, mà cả ngày lẫn đêm, ngày và đêm trong ba ngày, cho đến khi bạn nghĩ rằng mình sẽ leo lên nóc nhà!’
12. Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng đang tiếp tục giữ một vị trí nổi bật trong thế giới nghệ thuật
Đó là một ảnh hưởng nhất quán đối với các nghệ sĩ đương đại, một chủ đề thường xuyên cho các học giả và thị trường nghệ thuật.
Kể từ triển lãm ‘Hội họa mới của nước Mỹ’ tổ chức bởi MoMA, đã có vô số triển lãm lớn dành riêng cho việc khám phá phong trào này. Từ sự kiện của Met [Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan], ‘Epic Abstraction’ [Trừu tượng hùng tráng] khai mạc vào năm 2018 đến triển lãm ‘Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng’ tại Học viện Nghệ thuật Hoàng gia ở London, nó vẫn được quan tâm trên toàn cầu.
BARNETT NEWMAN (1905-1970), LỬA ĐEN I, 1961. SƠN DẦU TRÊN TOAN. 114 × 84 IN (289.5 × 213.3 CM)
ĐÃ BÁN $84,165,000 NGÀY 12 THÁNG 5, 2014 TẠI CHRISTIE’S NEW YORK
Tại các cuộc đấu giá, các tác phẩm của những nghệ sĩ Biểu hiện Trừu tượng tiếp tục phá vỡ các kỷ lục, với một số nghệ sĩ đạt một số mức giá cao nhất từng thấy. Năm 2012, ‘Cam, Đỏ, Vàng’ của Rothko (1961) được bán với giá 86,9 triệu USD tại Christie’s, lập kỷ lục cho ông. ‘Lửa đen I’ của Barnett Newman được bán tại Christie’s với giá 84,1 triệu USD đã lập một kỷ lục khác vào năm 2014.
Giá cao nhất cho hạng mục này thuộc về Willem de Kooning, ‘Interchange’ [Liên biến] của ông được mua với giá 300 triệu USD trong một cuộc mua bán riêng, khiến nó trở thành tác phẩm nghệ thuật đắt giá thứ hai trên thế giới.
Ngày nay, Biểu hiện Trừu tượng không chỉ náo nhiệt trên thị trường, nó đang tiếp tục cộng hưởng với các sáng tạo đương đại. Các nghệ sĩ nổi tiếng như Anish Kapoor và Julian Schnabel đã tham khảo phong trào này, mô típ Ab Ex thậm chí còn bắt đầu xuất hiện trong tác phẩm của các nghệ sĩ NFT, tiếp tục khẳng định sức sống của nó.
NGUỒN: CHRISTIE’S
LƯỢC DỊCH BỞI VIET ART VIEW