Logo loading

NHỮNG TÀI NĂNG HỘI HỌA TÁI HIỆN ÁNH SÁNG VÀ BẦU KHÔNG KHÍ RẠNG RỠ

Tìm cách đưa ánh sáng lên những tấm toan, những nghệ sĩ trong bộ sưu tập của Paul G. Allen đã nắm bắt được mối liên hệ của nó với cuộc sống Từ mặt trời lấp lánh trên bề mặt của một con lạch, đến ánh sáng vàng kim làm nổi những đường gân trên […]
|Viet Art View

Tìm cách đưa ánh sáng lên những tấm toan, những nghệ sĩ trong bộ sưu tập của Paul G. Allen đã nắm bắt được mối liên hệ của nó với cuộc sống

Từ mặt trời lấp lánh trên bề mặt của một con lạch, đến ánh sáng vàng kim làm nổi những đường gân trên cây cổ thụ, chúng ta có thể thấy ánh sáng chiếu sáng thế giới của chúng ta bằng màu sắc như thế nào, tạo sự tương phản với những chiếc bóng và mang lại cho chúng ta sự sống.

Trong suốt lịch sử hội họa, các họa sĩ đã chấp nhận thử thách bắt ánh sáng đưa lên tác phẩm của mình. Một họa sĩ bậc thầy là người có khả năng tổ chức, sắp đặt để diễn tả được sự hiện diện của ánh sáng, có thể khiến cho màu xanh sâu thẳm của bầu trời sáng lên như nó đã phản chiếu ở đại dương. Cuộc đấu giá sắp tới tại Christie’s ‘Tầm nhìn: Bộ sưu tập của Paul G. Allen’ diễn ra vào tháng 11, sẽ mang đến những tác phẩm của một số họa sĩ vĩ đại đã chinh phục được thử thách nắm bắt ánh sáng, với tất cả sự phức tạp của nó.

Một ấn tượng

Năm 1900, Claude Monet đã cùng vợ và con gái đến London để thăm con trai ông, Michel. Monet đã dành gần như toàn bộ thời gian để vẽ thành phố. Ông sẽ quay lại trong ba mùa xuân tiếp theo, tập trung vào ba mô-típ: Nhà Quốc hội, Cầu Charing Cross và Cầu Waterloo.

Nhiều lần lặp lại hai cây cầu nhìn từ ban công, nơi ông theo dõi cách mặt trời phản chiếu trên mặt nước trong suốt cả ngày. Trong ‘Waterloo Bridge, soleil voilé’ (1899-1903) [Cầu Waterloo, khi mặt trời bị che khuất] mô tả của ông về cảnh quan này đã đạt đến đỉnh cao. Bức tranh là khung cảnh thành phố với cây cầu và các nhà máy ở xa, một bản giao hưởng màu sắc, nhấn mạnh tính kỳ ảo đã trở thành đặc trưng của London nhờ sương mù, phủ lên những chuyển động đều đều của máy móc thành phố công nghiệp — một tấm màn hư ảo tĩnh lặng.

Claude Monet (1840-1926), Cầu Waterloo, khi mặt trời bị che khuất, 1899-1903. Sơn dầu trên toan. 25¾ × 39½ in (65.4 × 100 cm).

Cân bằng là thách thức cuối cùng. Trong nhiều năm, Monet đã nghiên cứu cách để ghi lại bầu không khí phù du của những phong cảnh luôn thay đổi. Thời tiết, thời gian trong ngày và dòng nước chảy qua cầu, tất cả đã định hình nên cảnh quan công nghiệp mà ông tìm cách khắc họa. Nhưng chính sương mù lại là thứ khó chế ngự nhất và điều đó đã góp phần tạo nên effet [hiệu ứng] độc nhất vô nhị của London.

“Nếu không có sương mù, London sẽ không phải là một thành phố xinh đẹp”, ông nói với nhà kinh doanh nghệ thuật René Gimpel vào năm 1920. “Chính sương mù đã tạo cho nó một bề rộng tuyệt đẹp. Những khối lớn, đều đặn đó trở nên nguy nga bên trong chiếc áo choàng bí ẩn.”

Những đám mây có tông màu hoa cà, xanh lam và tím ở ‘Cầu Waterloo, khi mặt trời bị che khuất’ ghi lại cách sương mù chùm lên sông Thames khi trời về chiều, mặt trời đang chuyển động về phía Tây xuyên qua đám mây dày đặc, nhẹ nhàng thắp sáng các vòm rộng của cây cầu. Sự phản chiếu và bí ẩn tinh tế của bầu không khí London khiến Monet chú ý không ngừng trong suốt thời gian ông ở đây.

Sự phản chiếu

Thói quen trong suốt cuộc đời của J.M.W. Turner là nhanh chóng phác thảo các ấn tượng bằng bút chì và màu nước, việc này đặc biệt hữu dụng khi ông già đi và ít đi lại. Bức tranh ‘Ánh trăng ở Lungernsee, Thụy Sĩ’, khoảng năm 1848 — một phần trong series cuối cùng của ông về Thụy Sĩ — được vẽ từ ký ức, dựa trên một trong những phác thảo đó.

Joseph Mallord William Turner (1775-1851), Ánh trăng ở Lungernsee, Thụy Sĩ, khoảng 1848. Bút chì, màu nước, bút nhúng màu trên giấy. 15 ¼ × 22 ¼ in (38.4 × 56.2cm). Ước tính: $2,500,500-3,500,000.

Khi nó xuất hiện lần đầu tiên tại Christie’s vào năm 1865, tác phẩm không có tiêu đề, vì nó đã không được trưng bày trong suốt cuộc đời của họa sĩ. Vào thời điểm đó, người ta nhầm tưởng nó là hình ảnh của Hồ Nemi, miệng núi lửa ở phía đông nam Rome. Chỉ đến năm 2001, nó mới được phát hiện là Lungernsee, một trong những chuỗi hồ nhỏ mà du khách sẽ gặp khi đi lên từ Lucerne đến Đèo Brunig.

Giống như trong các tác phẩm khác từ series Thụy Sĩ của Turner, ông đề cập nhiều đến sự tương phản, sử dụng màu vàng mù tạt và màu xanh lục của đất, tương phản với các bóng màu hoa cà và xanh lam để theo dõi đường đi của ánh sáng phản chiếu từ mặt trăng lưỡi liềm. Tất cả được xoa dịu bởi sự phản chiếu màu xanh lá trong làn nước sáng. Kỹ thuật sử dụng màu sắc của ông qua các lớp mờ và các vệt màu giúp tinh chỉnh cảnh hoàng hôn, khiến nó vừa mang cảm giác yên bình vừa tràn đầy năng lượng.

Monet và Turner, bị thu hút tại những địa phương này với bầu không khí thay đổi của chúng, đại diện cho nguyên lý trung tâm của bộ sưu tập: góc nhìn độc đáo của họa sĩ. Như ông Allen đã mô tả: “Bạn trở nên nhạy cảm với thực tế về những nơi có ánh sáng đặc biệt thu hút các họa sĩ, và bạn muốn trải nghiệm điều đó qua đôi mắt của họ.”

Những cái bóng và điều chưa biết

Thường thì hiệu ứng cảm xúc của ánh sáng đến từ mối quan hệ của nó với bóng tối. Trong bức ảnh chụp một ngày nắng, mắt chúng ta di chuyển đến một điểm nào đó của bóng râm để xem những gì đang ẩn giấu. Ngược lại, vào buổi tối, chúng ta không thể rời mắt khỏi ánh sáng ấm áp của ánh sáng từ một ngôi nhà hoặc đèn đường. Trong ‘La voix du sang’ của René Magritte, chín ngọn đèn nhỏ phát ra từ bên trong một cái cây, cuốn hút chúng ta vào điều bí ẩn.

René Magritte (1898-1967), La voix du sang, 1948. Sơn dầu trên toan. 31⅛ × 23⅛ in (79.1 × 58.6 cm). Ước tính: $12,000,000-18,000,000.

Được dịch là ‘Blood will tell’, sát nghĩa là ‘giọng của máu’, phong cảnh siêu thực của Magritte vay mượn các phần tương tự của ‘Alice trong xứ sở kỳ diệu’ của Lewis Carrol — nơi Alice bước qua ngưỡng cửa trong một cái cây — và sở thích của họa sĩ đối với điều kỳ diệu. Ông nói về tiêu đề này trong nhiều bài viết: “Những từ được gọi ra bởi máu của chúng ta đôi khi có vẻ bí ẩn. Ở đây có vẻ như chúng ta được lệnh mở những hốc thần kỳ trên cây.”

Nằm trên rìa của một ngọn đồi với cảnh quan không giới hạn, cái cây giống tủ chứa một ngôi nhà nhỏ và một khối cầu phía trên. Đáng chú ý, cánh cửa trên cùng đang hé mở, không có gợi ý nào về những gì có thể ẩn nấp phía sau.

Tránh chủ nghĩa tượng trưng rõ ràng — một ngôi nhà có nghĩa là ‘x’, hoặc một hình cầu có nghĩa là ‘y’ — Magritte sử dụng các đồ vật để gợi cảm giác. Ánh sáng ấm áp từ ngôi nhà gợi ý rằng có lẽ chúng ta chỉ có thể thực sự ở nhà trong thế giới vẫn còn một số bí ẩn. Hiểu mọi thứ cũng có nghĩa là sẽ không còn gì để khám phá. Do đó, cánh cửa hé mở nói lên căng thẳng giữa sự che giấu, những điều chưa biết và cảm giác bình yên.

Ở đây, ánh sáng xuyên qua bóng tối sẽ mở ra một thế giới cho người xem bằng cách chỉ trình bày một phần thông tin nhỏ, để phần còn lại cho việc giải thích. Mặt khác, sử dụng bóng tối như một sự tương phản để làm lộ ánh sáng cũng có thể mang lại tác động sâu sắc không kém.

Những giờ vàng kim và thiên đường 

‘Hilltop’ [Trên đỉnh đồi] của Maxfield Parrish là một mô tả tuyệt vời về mối quan hệ giữa ánh sáng và bóng tối. Parrish muốn tác phẩm của mình tự nói lên điều đó: “Theo suy nghĩ của tôi, nếu bức tranh không kể câu chuyện của chính nó, tốt hơn là nên có câu chuyện mà không có bức tranh. Bức tranh nói lên tất cả, ngoài ra không còn gì nữa.”

Maxfield Parrish (1870-1966), Trên đỉnh đồi, 1926. Sơn dầu trên ván. 35¾ × 22 1/4 in (91 × 56.5 cm). Ước tính: $2,000,000-3,000,000.

‘Trên đỉnh đồi’ được vẽ vào năm 1926, mô tả một không gian bình dị lấy cảm hứng từ khu vực đẹp như tranh quanh ngôi nhà của Parrish gần sông Connecticut, giữa Vermont và New Hampshire. Được biết đến với những cây sồi già, những ngọn đồi xanh biếc và cảm quan rộng lớn về không gian, khu đất được Parrish mua mang hình ảnh như ‘Trên đỉnh đồi’ trong tâm trí.

Hai người mẫu của ông ngả mình trong tư thế cổ điển, ánh sáng xuyên qua những chiếc lá xanh tươi của cây sồi, tỏa ánh vàng khi chiếu xuống. Đi cùng kỹ thuật nhiều lớp tỉ mỉ của họa sĩ là cách tráng bề mặt lấy cảm hứng từ những bậc thầy cổ điển, làm cho màu sắc được tăng cường, biến cảnh quan thành một thiên đường lý tưởng.

Ánh sáng thanh tao, màu sắc rạng rỡ và tỷ lệ cổ điển của vườn địa đàng này thu hút sự chú ý của chúng ta khi mắt nhìn vào hậu cảnh và nhận thấy vẻ tráng lệ chi tiết của những ngọn núi phía xa.

Không có gì bị che giấu, nhưng mọi thứ hiện ra như thể trong một giấc mơ. Parrish chọn một góc nhìn không che khuất, cũng không lọc tầm nhìn của chúng ta.

Nguồn của ánh sáng

Một nghệ sĩ khác đã chiến thắng sự phức tạp của ánh sáng, Andrew Wyeth sử dụng một kỹ thuật khác để thể hiện một tầm nhìn duy nhất. Được đóng khung bởi một tấm màn lưới đón ánh sáng từ hai cửa sổ đang mở, nhân vật trong ‘Giấc mơ ban ngày’ của Wyeth xuất hiện trong không gian giữa hai ranh giới, vừa gần gũi vừa xa cách.

Andrew Wyeth (1917-2009), Giấc mơ ban ngày, 1980. Màu keo trên ván. 19 × 27¼ in (48.3 × 69.2 cm). Ước tính: $2,000,000-3,000,000.

Bố cục khêu gợi, mang đến cái nhìn mãn nhãn về người phụ nữ đang nằm, cô được che giấu bởi một tấm màn, che giấu cũng như để lộ ra. Wyeth đặc biệt xuất sắc khi thể hiện những nếp gấp của tấm màn, cách chúng bắt sáng, tạo cho chủ thể của bức tranh vẻ đẹp của một nữ thần sắp thức giấc.

Tác phẩm được vẽ tại ngôi nhà của gia đình Wyeth ở Port Clyde, Maine, vào năm 1980, một trong series về Helga Testorf, y tá làm việc cho người hàng xóm của ông, Kuerner, người đã làm mẫu cho hơn 400 tác phẩm của Wyeth.

Khi người ta đến gần bức tranh hơn, nhìn kỹ hơn vào bầu không khí sáng sủa của cửa sổ và sự chuyển động của ánh sáng trên cơ thể Helga, các lớp màu kem sáng cho thấy những chi tiết đáng kinh ngạc. Ngoài màu sắc, kết cấu của chúng chính là những gì mang lại vẻ rạng rỡ tinh tế cho toàn bố cục.

Mỗi kiệt tác này sinh ra từ kỳ công nghiên cứu về ánh sáng, cách khai thác nó để truyền tải những cảm xúc khác nhau. Wyeth khám phá sự gần gũi với sự cân bằng ánh sáng tinh tế trên một thân hình, trong khi Parrish và Magritte khám phá bí ẩn của ánh sáng và bóng tối trong phong cảnh. Monet miêu tả sinh khí của một thành phố, và những ấn tượng về ánh sáng vào một buổi chiều sương mù. Turner sử dụng các kỹ thuật tương tự để nghiên cứu không gian rộng mở và cảm quan trên Lungernsee.

Những tác phẩm từ bộ sưu tập của Paul G. Allen là những kiệt tác về ánh sáng, được tạo ra bởi những nghệ sĩ tiên phong trong những cách khiêu khích nhất. Chúng gợi ra một bầu không khí khó nắm bắt, đồng thời là cảm giác rõ ràng và khác biệt, ngay cả khi không thể diễn tả bằng lời. Họ hiểu bầu không khí, và trên hết, cách con người phản ứng với môi trường luôn thay đổi.

Nguồn: Christie’s

Lược dịch bởi Viet Art View

 

 

 

 

 

 

Chia sẻ:
Back to top