Cái “rỗng” trong điêu khắc của Henry Moore
Quan điểm nhấn mạnh cái không trong cặp tương quan có – không (hoặc cái vô trong cặp hữu – vô, hoặc khoảng rỗng trong cặp khối đặc – khoảng rỗng) trong Đạo Đức Kinh đã gợi ý cho chúng tôi một cách nhìn thú vị về nghệ thuật điêu khắc. Đó là sự tạo hình từ những khoảng rỗng.
Xét về mối tương quan đặc – rỗng thì lịch sử điêu khắc là lịch sử của việc tạo hình trên khối đặc. Từ thời Ai Cập, Hy Lạp, Lưỡng Hà, La Mã cổ đại cho tới thế kỷ XX, điêu khắc đều chú ý đến tỷ lệ, sự hài hòa, cảm xúc nhân vật trên những mảng khối cơ thể lồi ra. Các nhà điêu khắc say sưa với cơ bắp, đường gân, nét mặt… nhưng tất cả đều được tạc trên khối đặc. Liệu có thể có điêu khắc được tạo hình trên khoảng rỗng? Có vẻ như từ giữa thế kỷ XX đã xuất hiện một số những nhà điêu khắc như Henry Moore đã gần trả lời được câu hỏi đó. Moore nói: “Để biết một thứ, bạn phải biết cái đối nghịch với nó”. Và cái đối nghịch của đặc là rỗng. Muốn hiểu đặc chúng ta phải hiểu rỗng, và ngược lại, muốn hiểu rỗng chúng ta phải hiểu đặc. Đặc và rỗng đi với nhau như âm với dương, như đóng và mở. Lịch sử của điêu khắc đã quá ưu ái cho đặc rồi, và giờ là lúc phải đền đáp xứng đáng cho vai trò của rỗng.
NGẢ MÌNH, HENRY MOORE
Ở tác phẩm “Ngả mình”, được Moore sáng tác năm 1951, chúng ta có thể thấy sức mạnh của những không gian trống đã xâm chiếm cơ thể người phụ nữ, làm cho nó bị teo đi, tạo thành một hình thể kỳ dị, mảnh mai, gai góc, cụ thể là những góc khoét ở đầu và bụng, sự săn se lại của tay và chân. Moore giải thích: “Bạn di chuyển không gian cho cơ thể, tưởng tượng một phần khác mặc dù không hiện hữu ở đó”. Tức là, chiêm ngưỡng một tác phẩm điêu khắc, ta không chỉ nhìn bằng mắt (để nhìn thấy những mảng khối đặc hiện hữu) mà phải cảm nhận bằng sự tưởng tượng nữa (để cảm thấy hình thể của những khoảng trống không hiện hữu). Ví dụ, ta có thể hiểu rằng cơ thể người phụ nữ trong tác phẩm “Ngả mình” không phải là có một chân mà dựa vào chuyển động của cơ thể, ta phải tưởng tượng ra một chân nữa. Và vị trí cái chân kia ở đâu phụ thuộc vào cách tưởng tượng của mỗi người. Hình của cái vô, khối của cái rỗng là như vậy, nó biến ảo bất tận theo mỗi cá thể tham gia tương tác với nó. Nó không có hình, mà lại có thể có rất nhiều hình.
Những tác phẩm của Moore được các nhà phê bình cho là thuộc trường phái “bán trừu tượng”, nhưng đó chỉ là một cách quy kết theo một góc nhìn nào đó đối với tác phẩm của ông, là những mảng khối gần như hình học mà vẫn có nét của hình thể thật. Khi so sánh Moore với các nhà điêu khắc hiện đại khác, thậm chí hậu hiện đại, đương đại… chúng tôi thấy có một sự khác biệt rất lớn về cảm nhận thị giác của không gian ba chiều, đó là cái cách Moore thể hiện những khoảng không, những lỗ đục, những miếng khoét với vai trò rất lớn trong bố cục. Ông nói: “Cái lỗ đầu tiên được đục qua khối đá, là một sự mặc khải”. Cái khoảng trống trong cái lỗ đối với ông có một ý nghĩa siêu nhiên, thần thánh, nó chứa đựng những giá trị linh thiêng vô hình mà cái khối đặc không có.
Cái “rỗng” ở những đài tưởng niệm
Những ý nghĩa thể hiện trên khối đặc hiển hiện ra trước mặt chúng ta bởi những đường nét, những góc cạnh, những mảng khối, những bố cục. Đó là cái đau đớn của Laocoon, cái mạnh mẽ hiên ngang của David, cái trầm ngâm suy tư của Người suy nghĩ… Nhưng những ý nghĩa của khoảng trống thì không thể nào thể hiện được. Không một đường nét nào có thể khắc ghi được trên khối rỗng. Không một chất liệu nào có thể mô tả được khoảng trống dù cho nghệ sĩ sử dụng các chất liệu như nước, thủy tinh, ánh sáng. Chúng ta nhìn thấy những đường nét, mảng, khối của một tác phẩm điêu khắc là chúng ta chỉ nhìn thấy cái hiện hữu (khối đặc) của tác phẩm, còn cái vắng mặt (khoảng rỗng) thì không thể nhìn thấy. Chúng ta chỉ có thể tưởng tượng mà thôi.
Thế nhưng, cái vô hình của khoảng rỗng lại ẩn chứa những giá trị sâu thẳm và siêu việt, linh thiêng và bất tử. Điều này được thể hiện rất rõ qua kiến trúc và điêu khắc của những đài tưởng niệm mà chúng tôi giới thiệu sau đây:
Đài tưởng niệm 11/9 ở New York
Công trình là hai hồ nước nhân tạo rộng, nằm dưới mặt sàn hai tòa tháp 110 tầng đã bị đánh sập ngày 11/09/2001. Những thác nước bao quanh hồ, kết hợp với không gian lịch sử rợp bóng cây sồi đã khiến không chỉ gia đình các nạn nhân, những người sống sót sau vụ khủng bố, mà cả các du khách lần đầu tới tham quan phải bồi hồi, xúc động. Các thác nước khổng lồ được bao quanh bởi lan can bằng đồng, trên đó có khắc tên những người đã mất. Có 2.983 cái tên được khắc trên 16 tấm bảng đồng. Ý tưởng dùng khoảng trống của chính hố móng hai tòa tháp cũ làm đài tưởng niệm rất độc đáo và cho chúng ta thấy tư duy thiết kế tượng đài của người Mỹ ở mức khá cao. Đó là, kỷ niệm nỗi đau thì không phải để ngước lên nhìn mà là để cúi xuống hồi tưởng và cảm nhận cho riêng mình; cảm giác trống rỗng và mất mát không phải gửi gắm ở những hình thể mạnh mẽ vươn lên mặt đất mà phải hòa tan vào khoảng không của trời đất và khoảng trống của công trình. Những cái nhìn vào khoảng trống mang đến cho mỗi người sự hoài niệm và sự chia sẻ nỗi buồn trong tâm khảm.
Đài tưởng niệm 11/9 ở New Jersey
Thoạt nhìn, tác phẩm điêu khắc mang tên “Giọt lệ” này là một khối đặc vươn lên từ mặt đất. Nhưng nhìn kỹ chúng ta sẽ thấy khoảng rỗng vỡ nứt nham nhở mới là điểm nhấn của tác phẩm. Nhà điêu khắc người Nga Tsereteli đã tạo ra sự tương phản rất mạnh giữa khối đặc với khoảng rỗng, giữa bề mặt thô ráp của viền khoảng rỗng với bề mặt trơn tru của giọt lệ. Rõ ràng, khoảng không của trời đất làm nổi bật hình thể của tượng đài, khoảng rỗng của vết nứt làm nổi bật vẻ đẹp của giọt lệ. Ngược lại, các mảng đặc vuông vắn của khối đồng bao ngoài và khối cong của giọt lệ cũng đồng thời tôn vinh sự vỡ vụn đổ nát của khoảng rỗng, cũng chính là nơi hàm chứa nỗi đau và sự tàn khốc của sự kiện 11/9.
Đài tưởng niệm liệt sĩ Bắc Sơn ở Hà Nội
Kiến trúc sư Lê Hiệp đã sử dụng “khối âm”, một cách gọi của ông về cách tạo hình từ khoảng rỗng. Đó là cách tác giả khoét khối hộp xiên chéo vào trong tạo thành hình mái chùa. Hình thể mái chùa bị lõm vào cũng như khoảng trống bên trong khối hộp đã tạo ra cảm giác trầm lắng, trường cửu của thế giới bên kia – thế giới của phi vật chất, của khoảng không, của những linh hồn bất tử. Nhớ lại khi chấm giải cho các phương án dự thi Đài tưởng niệm liệt sĩ Bắc Sơn, cố thủ tướng Võ Văn Kiệt đã kiên quyết bảo vệ phương án của Lê Hiệp trước sức ép của nhiều người khác. Cái tầm nhìn và cái tâm của một nhà lãnh đạo đối với nghệ thuật nước nhà như thế thật hiếm có và đáng quý. Có lẽ ông đã cảm nhận sâu sắc sự đau thương và bất diệt ở khoảng rỗng của tác phẩm này.
ĐÀI TƯỞNG NIỆM 11/9 Ở NEW YORK
ĐÀI TƯỞNG NIỆM 11/9 Ở NEW JERSEY VÀ ĐÀI TƯỞNG NIỆM LIỆT SĨ BẮC SƠN
Điêu khắc từ “khối rỗng”
Như vậy, yếu tố rỗng có ý nghĩa gần gũi với các khái niệm vô, âm, không, còn yếu tố đặc lại liên quan nhiều với các khái niệm hữu, dương, có. Vì vậy, các khối đặc mang lại cảm giác hiện hữu, vật chất, mạnh mẽ, rõ ràng, có thể hủy hoại… còn các khoảng rỗng mang lại cảm giác vắng mặt, lẩn khuất, lặng lẽ, chia sẻ, sâu kín, trường tồn… Từ đó, các nhà điêu khắc và các kiến trúc sư sẽ quyết định nên sử dụng chủ yếu rỗng hay đặc cho các tác phẩm của mình để đạt được ý nghĩa tác phẩm mong muốn. Và nếu chúng ta đã có khái niệm “khối đặc”, thì tại sao lại không có “khối rỗng” trong điêu khắc? Chúng tôi tin rằng “khối rỗng” sẽ khơi gợi cho chúng ta nhiều ý tưởng mới mẻ trong điêu khắc.
BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ VŨ HIỆP