Nổi tiếng là người tiên phong của trường phái nghệ thuật Nanyang, những bức tranh tĩnh vật của nữ họa sĩ thế kỷ 20 có tầm nhìn Georgette Chen kể về một cá nhân phi thường với cuộc đời đi khắp thế giới từ ánh đèn rực rỡ của Paris đến thiên đường mà cô tìm thấy ở Đông Nam Á.
Georgette Chen (1906-1993) đã có được danh tiếng với tư cách một họa sĩ Singapore của thế kỷ 20, người mà thực hành [nghệ thuật] mang tính gợi cảm, đáng chú ý khi kết hợp chủ đề châu Á với phong cách và kỹ thuật phương Tây. Cách tiếp cận của cô sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến các thế hệ nghệ sĩ Đông Nam Á thông qua vai trò nhà giáo nữ đầu tiên tại Học viện Mỹ thuật Nanyang của Singapore. Là một thành viên tích cực của École de Paris, thực hành của Chen đã xử lý thể loại tĩnh vật một cách đổi mới đặc biệt, dựa trên các mô típ và ảnh hưởng của Trung Quốc, Đông Nam Á và phương Tây, phản ánh cuộc sống lưu động đầy lôi cuốn của cô giữa Trung Quốc đại lục và Paris, cũng như tình yêu của cô dành cho quê hương thứ hai, Singapore, trong cuộc sống sau này.
Georgette Chen, Vải và Đào
Tác phẩm Vải và Đào (khoảng 1940-1945) thể hiện vị trí xứng đáng của Chen với tư cách là người kế thừa có tầm nhìn của các bậc thầy tĩnh vật như họa sĩ Hậu Ấn tượng người Pháp Paul Cézanne. Sử dụng nhiều phối cảnh trong một bố cục duy nhất để thể hiện trải nghiệm thực sự của thị giác, những nét cọ táo bạo và tự tin của Chen đã tạo ra sự toàn vẹn và nhịp điệu mạnh mẽ của hình dạng, mang đến cho các bức tranh của cô sự năng động tinh tế. Ảnh hưởng của Paris là không thể phủ nhận trong quá trình đào tạo của Chen: sinh ra ở Chiết Giang năm 1906, con của một doanh nhân cấp tiến chuyên kinh doanh nghệ thuật và đồ cổ châu Á, cuộc sống ban đầu đầy đặc quyền của Chen giữa quê hương và các bảo tàng cũng như đường phố của Paris và New York đã nuôi dưỡng một tình yêu và hiểu biết sâu sắc về nghệ thuật phương Tây. Từ năm 1926 đến năm 1927, cô tham gia các lớp nghệ thuật tại Liên đoàn Sinh viên Nghệ thuật New York, nhưng nhớ cuộc sống ở Paris, cô quay lại học nghệ thuật tại Học viện Colarossi và Học viện Biloul, nơi cô bị ảnh hưởng bởi tầm nhìn của những người theo trường phái Hậu Ấn tượng. Những nghệ sĩ này đánh giá cao những phản ứng tâm lý và cảm xúc đối với thế giới, đặc biệt là Cézanne đã sử dụng thể loại tĩnh vật như một phương tiện để thể hiện chất thơ của những đồ vật hàng ngày. Lật ngược mối liên hệ của tĩnh vật với những hình dạng đơn giản và thấp nhất của nghệ thuật, Cézanne thấy mình bị thu hút bởi trái cây như một phép ẩn dụ cho mối quan hệ thiêng liêng của con người với trái đất. Ca ngợi sự hấp dẫn của nó với một người bạn, ông bình luận:
“Chúng [trái cây] thích được vẽ chân dung… Chúng tỏa ra thông điệp bằng mùi thơm của mình. Chúng đến chỗ bạn bằng tất cả hương vị của chúng và kể cho bạn nghe về những cánh đồng mà chúng đã từ đó rời đi, cơn mưa đã khiến chúng lớn lên, những bình minh mà chúng đã ngắm nhìn. Khi tôi phác thảo vỏ của một quả đào xinh xắn bằng những vệt sơn mềm mại, hoặc một quả táo già buồn bã, tôi thoáng thấy trong sự phản chiếu mà chúng trao đổi… cùng một tình yêu với mặt trời, cùng một hồi ức về sương, một sự tươi mới.” —TRÍCH DẪN TRONG JOACHIM GASQUET, CÉZANNE: KỶ NIỆM VỚI NHỮNG CUỘC TRÒ CHUYỆN, LONDON, 1991, trang 220.
Paul Cézanne, Tĩnh vật với tấm rèm, khoảng 1898. Bộ sưu tập Bảo tàng Hermitage.
Vải và Đào dệt nên một câu chuyện ngụ ngôn về những ngày đầy nắng, những ngày “bất diệt” trong cuộc hôn nhân của Chen với người chồng đầu tiên yêu dấu của cô, Eugene Chen Youren, cựu Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, giữa bóng tối của cái chết và sự hủy diệt. Quả đào, biểu tượng của sự trường thọ và khả năng sinh sản của Trung Quốc cổ đại, bên cạnh những quả vải màu đỏ, hình trái tim, một biểu tượng cho tình yêu từ thế kỷ thứ 8, khi Hoàng đế Lí Long Cơ hạ lệnh vận chuyển ngày đêm loại trái cây này cho phi tần sủng ái của ông với phí tổn rất lớn. Kết hôn vào năm 1930 tại Paris, những năm đầu bên nhau của cặp đôi là hình ảnh thu nhỏ của hạnh phúc hôn nhân. Ngôi sao của Chen đang đi lên: cùng năm đó, hai bức tranh của cô lần đầu tiên được chọn để đưa vào Salon d’Automne danh tiếng, và đến năm 1937, Chen đã được đưa vào hai triển lãm lớn ở Paris, tại Cung điện Hội họa, một phần của Hội chợ Thế giới Paris, và Triển lãm Nữ họa sĩ tại Bảo tàng Jeu de Paume. Eugene ủng hộ sự nghiệp nghệ thuật của người vợ trẻ, kiên nhẫn ngồi làm mẫu cho cô ấy và trở thành chủ đề nổi bật nhất. Trong nhật ký cá nhân của mình, Chen trầm ngâm về tình yêu, khả năng làm mẹ và tìm kiếm trái cây cho những nghiên cứu về tĩnh vật. Những nét cọ ngắn và ngập ngừng trong những bức tranh tĩnh vật thời kỳ đầu của Chen đã nở rộ thành những dấu ấn đậm nét, mang tính biểu tượng cho thời kỳ này. Thích sử dụng trái cây sắp chín làm mẫu, sự hòa hợp màu sắc theo phong cách Dã thú của Chen – màu đỏ ấm áp và màu xanh trứng vịt mát mẻ – mang lại cảm giác nữ tính và cường độ cảm xúc nổi bật đối với truyền thống phương Tây của thể loại tĩnh vật.
Chiếc đĩa lớn đáy bằng tinh xảo xuất sắc, tráng men hồng, với hình vẽ những trái đào,
Dấu Ung Chính, thời kỳ Ung Chính
Một chiếc bình mai thượng hạng, đẹp và quý hiếm, màu xanh và trắng, vẽ hình hoa quả, Triều Minh
Những chủ thể đầy hứa hẹn của Vải và Đào được đắp nổi một cách sắc nét bởi mặt trời đang mờ dần lơ lửng ở tầm thấp, bóng của chúng bò dọc trên tường và chiếc bàn mây – một điềm báo về biến động và bi kịch sẽ ập đến với đôi tình nhân. Chiến tranh Trung-Nhật chứng kiến cặp vợ chồng bị bắt ở Hongkong năm 1941, chuyển đến Thượng Hải năm 1942, nơi họ bị quản thúc tại gia do Eugene kiên quyết từ chối cộng tác với lực lượng chiếm đóng. Tuy nhiên, Chen không bao giờ ngừng vẽ, thậm chí còn tổ chức hai triển lãm cá nhân ở Thượng Hải tại khách sạn Metropole (1943) và Alliance Française (1947). Mặc dù hầu như bị giam trong nhà, tĩnh vật của cô ghi lại những hình ảnh gần gũi, chân thật của cuộc sống hàng ngày khi đối mặt với nghịch cảnh. Khi còn trẻ, quyết định học sơn dầu thay vì hội họa Trung Quốc (như cha cô đã hy vọng) để “vẽ mọi thứ xung quanh tôi, con người, thức ăn, hoa, vịt muối, thuyền tam bản, nông dân và khoai tây”, Chen liên tục khám phá vẻ đẹp trong những đồ vật bình thường nhất xung quanh cô. Cô đặc biệt bị quyến rũ bởi vẻ tao nhã của chiếc giỏ đan khiêm tốn, thứ sẽ trở thành mô típ neo đậu suốt đời trong nghệ thuật tĩnh vật của cô.
Abraham Mignon, Tĩnh vật với mận, đào, mơ, nho và dưa, với ly lớn và ly sâm-panh, một chú chim sẻ vàng trên bậu cửa sổ và những chú chim khác
“Tôi phát hiện ra rằng bằng cách đi vòng quanh những nơi khác nhau, đặc biệt là các khu chợ, bạn sẽ thấy thực tế tất cả những chiếc giỏ ở đó đại diện cho một đất nước cụ thể. Ví dụ, ở Trung Quốc, nếu bạn vẽ một cái giỏ, bạn sẽ biết cái giỏ đó đến từ huyện nào. Đó là lý do tại sao mọi người thường gọi tôi là ‘Chen giỏ’, và thực tế là tôi nghĩ những chiếc giỏ rất đẹp.”—GEORGETTE CHEN
Những năm tháng chiến tranh đầy biến động lên đến đỉnh điểm khi Eugene, sức khỏe yếu, không chống đỡ được một cơn đau tim và qua đời vào năm 1944. Sự tươi sáng và hy vọng ấm áp, gần gũi trong tranh tĩnh vật của Chen thời kỳ này là chủ đề mà cô sẽ thăm lại vào những khoảng thời gian hạnh phúc hơn. Trở lại một “tồn tại đơn giản, hữu ích và sáng tạo” sau khi li dị người chồng thứ hai và chuyển tới Singapore vào tháng 6 năm 1953, nơi cô sẽ chọn để sống phần đời còn lại của mình, Chen bắt đầu ghi lại vẻ đẹp và sự trù phú của vùng nhiệt đới bằng sinh lực mới mẻ. “Cho dù tôi vẽ một khuôn mặt hay một hạt đậu, một ngọn núi hay một bông hoa huệ, nguyên tắc là như nhau và tôi không thể cưỡng lại việc vẽ tất cả những vật đẹp đẽ này”, cô bình luận trong ghi chú đi kèm triển lãm cá nhân tại Trung tâm Văn hóa Hội đồng Anh ở Kuala Lumpur năm 1956. Những chùm chôm chôm, chuối và đu đủ thể hiện trong những sắc thái sống động của màu đỏ, xanh và vàng mù tạt, với một kiểu chủ nghĩa biểu hiện vui tươi. Tự ví mình như một “trái cây nhiệt đới đích thực” phát triển trong “thiên đường đa chủng tộc của ánh nắng vĩnh cửu”, trong chương cuối cùng của đời mình, Chen đã nhìn thấy mối liên hệ trực tiếp với tình yêu sâu sắc và những ngày hạnh phúc “bất diệt” của cô bên Eugene:
“Tôi đã làm lại cuộc đời mình, nhưng thực sự nó không khác lắm so với cuộc đời tôi đã có với Eugene thân yêu. Trên thực tế, anh ấy sẽ cảm thấy như ở nhà nếu anh ấy có thể đến thăm tôi! Tất cả hương thơm của năm qua với anh ấy là bất diệt và tràn ngập sự tồn tại mới này. Bạn bè ngạc nhiên trước sự mãn nguyện của tôi.” —GEORGETTE CHEN
Trải qua nhiều cuộc chiến tranh và cách mạng, những bức tranh tĩnh vật của Chen thúc giục người xem hướng tới sự hài hòa trong nội tâm và sự lạc quan, tập trung vào cuộc sống và tình yêu nảy nở giữa những thăng trầm của khó khăn và biến động toàn cầu. So sánh cách tiếp cận nhẹ nhàng của Chen với tâm trạng nổi tiếng thất thường của Van Gogh, đồng nghiệp Nanyang của cô, nghệ sĩ Liu Kang, nhận xét: “Sự tinh tế thay thế những cảm xúc táo bạo và không kiềm chế đó để thể hiện sự ấm áp và dịu dàng hơn.” Là một nữ nghệ sĩ ở thế kỷ 20 luôn tìm cách nắm bắt chất thơ của cuộc sống hàng ngày, chuyến hành trình phi thường của Chen từ Chiết Giang đến Paris, Hongkong, Thượng Hải, New York, Penang và cuối cùng là Singapore đã sinh ra một tầm nhìn tự thân phi thường. Là cầu nối giữa các nền văn hóa phương Đông và phương Tây, Chen sẽ góp phần đặt nền móng cho bản sắc nghệ thuật của một quốc gia mới.
Pan Yuliang, Hoa cúc trong chiếc bình màu xanh
Tác phẩm của Chen có trong các bộ sưu tập của Bảo tàng Long ở Thượng Hải, Bảo tàng Nghệ thuật Châu Á Fukuoka của Nhật Bản và Trung tâm Pompidou ở Paris. Năm 1982, cô nhận Huy chương Văn hóa của Singapore, củng cố vị trí của một trong những người định hình cảnh quan văn hóa nghệ thuật của Singapore và sau khi cô qua đời, năm 2020, Phòng trưng bày Quốc gia Singapore đã tổ chức “Georgette Chen: At Home In The World” [Georgette Chen: Thế giới là nhà], triển lãm hồi tưởng lớn cấp bảo tàng lần đầu tiên về nghệ sĩ trong hơn hai thập kỷ, tập trung vào di sản có sức sống lâu dài của cô trong sự phát triển của nền nghệ thuật Singapore. Các tác phẩm của cô cực kỳ hiếm và chỉ còn một số ít tranh sơn dầu thuộc sở hữu tư nhân.
Bài viết của Marian Ang
Nguồn: Sotheby’s
Lược dịch bởi Viet Art View