Khi số phận và ý chí trùng hợp
Có lẽ, đó là một sự sắp đặt của số phận. Năm 1926, Vũ Cao Đàm bước vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương – theo học chuyên ngành hội họa. Một lần, thầy Hiệu trưởng Victor Tardieu tình cờ bắt gặp Vũ Cao Đàm đang nặn tượng chân dung cha – ông Vũ Đình Thi. Tardieu nhận ra ở Đàm năng khiếu tạo hình hiếm có và khuyên trò nên chuyển sang học điêu khắc.
Từ khoảnh khắc định mệnh ấy, con đường nghệ thuật của Vũ Cao Đàm rẽ sang một hướng mới. Năm thứ hai của khóa II, ngành điêu khắc có thêm một sinh viên. Trường Đông Dương có thêm một thủ khoa xuất sắc vào năm 1931. Mỹ thuật Việt Nam lại có thêm một trong những tên tuổi nghệ sĩ nổi tiếng nhất cả điêu khắc và hội họa.
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi từ 1926 đến 1931, khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường, Vũ Cao Đàm đã sáng tác nhiều bức tượng nổi tiếng. Trong đó, có những bức tượng đã trở thành biểu tượng cho nền điêu khắc hiện đại Việt Nam như Cô gái cài lược, khoảng 1927-1928, đồng; Người đàn ông đội mũ tế, 1930, đồng…
Năm 1931, Vũ Cao Đàm nhận được học bổng chuyên ngành điêu khắc ở Pháp. Lúc này cha mẹ ông vừa mới qua đời (cách nhau không lâu). Vũ Cao Đàm quyết tâm đi học, vừa để thỏa chí ước mơ được tiếp xúc với nghệ thuật châu Âu, vừa khỏa lấp nỗi niềm thương nhớ mẹ cha.
Tưởng như cuộc đời chàng nghệ sĩ trẻ Vũ Cao Đàm sẽ gắn bó điêu khắc một cách chuyên sâu sau ngã rẽ từ hội họa sang điêu khắc vào năm học thứ hai. Nhưng số phận một lần nữa đưa Vũ Cao Đàm quay trở lại hội họa.
Sau khi sang Pháp một thời gian, từ chiến tranh thế giới 1939-1945, chất liệu để làm tượng rất thiếu, việc đổ khuôn đồng bị cấm, vì vậy Vũ Cao Đàm chuyển sang vẽ tranh. Dù sau này, điêu khắc và hội họa luôn song hành trong các sáng tác của ông nhưng chắc chắn rằng, từ đây mở ra một thời kỳ nghệ thuật mới với hội họa – mãnh liệt và sâu sắc của Vũ Cao Đàm.
Cuộc đời đôi khi có nhiều ẩn số bất ngờ bao gồm cả khó khăn và thuận lợi. Vấn đề là mỗi người sẽ chọn đối diện và xử lý như thế nào. Vũ Cao Đàm với ý chí, nghị lực, niềm đam mê sáng tác, khả năng tư duy nghệ thuật mạch lạc đã đưa hai loại hình nghệ thuật mà ông gắn bó lên một tầm cao mới về ngôn ngữ tạo hình cũng như kỹ thuật.
Một tài năng đặc biệt – đa tài
Có ý kiến cho rằng, Vũ Cao Đàm chỉ chuyên về điêu khắc, hội họa với ông chỉ là giải pháp tình thế do chiến tranh. Nhưng trên thực tế, Vũ Cao Đàm rất thành công cả hội họa và điêu khắc. Ông đã để lại di sản nghệ thuật đồ sộ trên dưới một ngàn tác phẩm lụa, sơn dầu, các bức tượng chân dung – trong đó có những bức tượng đã trở thành huyền thoại ghi dấu tên ông.
Sang Pháp trước Lê Phổ, Mai Trung Thứ sáu năm; trước Lê Thị Lựu chín năm, nhưng ở thời kỳ đầu vẽ tranh lụa, Vũ Cao Đàm và ba người bạn thân đều có những ảnh hưởng nhất định về sáng tác vì cùng được đào tạo tại một ngôi trường. Thoạt nhìn, tranh của bốn nghệ sĩ có tạo hình, màu sắc, chủ đề khá tương đồng. Nhưng sau một thời gian, ngôn ngữ nghệ thuật của mỗi nghệ sĩ đã có màu sắc và cá tính riêng. Mai Trung Thứ trung thành chuyên tâm với lụa. Lê Thị Lựu trở lại sáng tác vào những năm 50 với phong cách nữ tính tuyệt đối. Lê Phổ và Vũ Cao Đàm thoạt tiên vẽ lụa, sau đó chuyển sang sơn dầu. Nhưng mãi đến thập niên 1960 Lê Phổ mới chuyển hẳn sang vẽ sơn dầu còn Vũ Cao Đàm đã dừng hẳn vẽ lụa – sau năm 1952. Ông cũng chia sẻ về việc này: “Đúng là trước tôi vẽ tranh lụa, sau đổi sang tranh sơn dầu và từ đó tôi tiếp tục vẽ tranh sơn dầu cho tới bây giờ. Vì tình hiếu kỳ khiến tôi hay tìm hiểu sâu thêm về hội họa và tôi thấy tranh lụa bị giới hạn bởi kích thước của bức tranh, lại có miếng kính che giữ gìn cho lụa nên không thể vẽ to được. Hơn nữa, ngay hồi còn đi học, chúng tôi vẫn ao ước được vẽ tranh ấn tượng và vẽ theo các trường phái mới mà vẫn không quên tất cả vẻ đẹp của nghệ thuật Đông phương.”1
Như vậy, Vũ Cao Đàm chỉ sáng tác tranh lụa trong khoảng 10 năm. Nhưng chỉ 10 năm ấy, trong quá trình sáng tác, ông đã tìm ra kỹ thuật vẽ lụa riêng của mình. Chính kỹ thuật này đã tạo những dấu ấn riêng đặc biệt cho tranh lụa của Vũ Cao Đàm, nhất là các bức chân dung. Ông đã tìm ra cách diễn tả chất da thịt con người trên lụa một cách tỉ mỉ và tinh tế như sơn dầu. Kỹ sư Ngô Thế Tân, chồng của họa sĩ Lê Thị Lựu đã chia sẻ: “Vũ Cao Đàm là người đầu tiên tìm cách biến hoá tranh lụa, chính họ Vũ đã tìm thấy kỹ thuật bồi lụa làm cho tranh lụa thoát khỏi kỹ thuật cổ điển.”. Vì vậy “Tranh lụa của Vũ Cao Đàm sắc sảo tinh vi hơn cả… có chiều sâu, có những nét trắc họa, đường vờn cong, tròn, đặc biệt Vũ Cao Đàm, ở đây, cực kỳ cao diệu.”2
Điều này minh chứng tài năng đặc biệt và sự đa dạng trong sáng tạo nghệ thuật của Vũ Cao Đàm với bất cứ loại hình mỹ thuật nào. Hội họa Vũ Cao Đàm giàu sức biểu cảm với “tranh lụa đượm vẻ cổ kính ngàn xưa, tranh sơn dầu bối cảnh xưa nhưng màu sắc tân kỳ”.
Hai bức tranh lụa Gặp gỡ và Thông điệp tình yêu được ông sáng tác đầu thập niên 1950 – lúc này ông đã qua thời kỳ vẽ giao hòa kỹ thuật tranh lụa cổ điển phương Đông, tạo hình châu Âu, chủ đề Việt Nam với màu lam hoặc rực rỡ, hoặc dịu nhẹ. Đây là thời kỳ tranh lụa của ông đạt đến đỉnh cao kỹ thuật. Sau khi bồi lụa, ông mới vẽ lên nhiều lớp màu; thậm chí là pha trộn giữa các chất liệu. Thủ pháp này tạo những hiệu ứng thẩm mỹ khác với tranh lụa truyền thống khi nhân vật và một số chi tiết khác có nổi khối, có đậm nhạt, có ánh sáng như sơn dầu thay vì những mảng phẳng. Đề tài thường bao gồm các tính cổ Truyện Kiều, chân dung các thiếu nữ, mẹ và em bé, và đặc biệt là sự xuất hiện thường xuyên của các nhân vật nam…

“Gặp gỡ”, một tác phẩm trên lụa của Vũ Cao Đàm

Trích đoạn tác phẩm “Thông điệp tình yêu”, chất liệu lụa, Vũ Cao Đàm
Trong bốn họa sĩ Phổ – Thứ – Lựu – Đàm, Vũ Cao Đàm có vẻ là người vẽ nhân vật nam nhiều nhất và thường có hai tuyến chính. Nam chiến binh (quan võ) với những con ngựa và nam học sĩ (quan văn) với sách, đàn. Đôi khi họ được đặt ở trong các vị trí khác nhau. Lúc là người chồng, người cha với bông hoa, trái táo; lúc lại là người trong mộng với nhẫn và vòng ngọc cầu hôn… Những nhân vật này được tác giả lý tưởng hóa về hình tượng. Ngoài tính lãng mạn, tính trữ tình, ông khắc họa nhân vật nam với thần thái nổi bật cá tính mạnh mẽ, vững chãi…
Với vai trò vừa là bạn thân, vừa là đồng nghiệp, Lê Thị Lựu đã nhận thấy sự mạnh mẽ từ nhân vật nam trong tranh của Vũ Cao Đàm tỏa năng lượng tích cực, tin cậy nên bà đã đưa hình ảnh nhân vật nam lý tưởng ấy vào tác phẩm Bữa ăn trong lòng mẹ của mình như một ước mơ về sự chở che bình yên.

“Thiền”, một tác phẩm sơn dầu của Vũ Cao Đàm

“Vòng ngọc bích”, một tác phẩm sơn dầu của Vũ Cao Đàm
Chủ đề Thiền, Cầu hôn bằng nhẫn và vòng ngọc bích rất được Vũ Cao Đàm ưa chuộng trong các bức tranh của mình. Ông thậm chí vẽ đi vẽ lại rất nhiều lần. Cũng giống như Mai Trung Thứ, ông chỉ cần thay đổi vị trí nhân vật, thay đổi hòa sắc, thay đổi một cử chỉ cũng đã khiến bức tranh với chủ đề cũ có một ánh nhìn tươi mới. Không những thế, Vũ Cao Đàm yêu thích chủ nghĩa Ấn tượng nên ông thường sử dụng gam màu nguyên, hòa sắc rực rỡ, dùng bay và cọ vẽ tạo nhiều lớp màu chồng lên nhau, mang đến cảm giác bồng bềnh bay xốp.
Ngoài hòa sắc rực rỡ ảnh hưởng của chủ nghĩa Ấn tượng, gam màu lam, đặc biệt là sắc lam xanh biếc được ông ưa dùng vô hình trung tạo sự nhận diện thẩm mỹ, hình thành nên ngôn ngữ màu sắc riêng của Vũ Cao Đàm. Màu lam biếc này có thể do ảnh hưởng từ màu biển xanh biếc của Địa Trung Hải, tỉnh Vence gần Cannes, nơi ông sống và sáng tác từ năm 1950.

“Khúc tương tư”, một tác phẩm sơn dầu của Vũ Cao Đàm

“Người đi về miền nhớ”, một tác phẩm sơn dầu của Vũ Cao Đàm
Những phân tích trên cho thấy, đối với Vũ Cao Đàm, đôi khi chủ đề trong tác phẩm chỉ là lý do để ông diễn giải suy nghĩ, tình cảm, thông qua đó thể hiện khả năng sáng tạo mà ông đã tự tìm tòi trong quá trình làm việc. Vũ Cao Đàm vốn xuất thân từ điêu khắc nên ông luôn có ý thức tạo khối và nhấn vào độ dày của bề mặt chất liệu. Thủ pháp chồng nhiều tầng gam lam với nhiều sắc độ, tạo khoảng trống giữa các lớp không gian vừa tạo độ sâu, trên đó là các khối hình nhân vật dường như bừng sáng mà không cần đường viền.
Với Vũ Cao Đàm, ranh giới giữa hai ngôn ngữ tạo hình hội họa và điêu khắc không những không làm khó được ông mà dường như còn bổ trợ trong tư duy sáng tác. Điều này khẳng định, với Vũ Cao Đàm, ngoài khả năng thiên bẩm về sáng tạo nghệ thuật, ông còn có nội lực và ý chí mạnh mẽ để có thể đi đến tận cùng những loại hình nghệ thuật mà ông chọn.
Đó chính là sự đa tài của một tài năng đặc biệt được chứng minh bằng kho tàng di sản nghệ thuật tạo hình phong phú mà ông để lại cho hậu thế.
Bài viết bởi Viet Art View
Chú thích:
1, Trích trong bài Nói chuyện với Vũ Cao Đàm của nhà văn Thụy Khuê.
2, Trích trong bài Ngô Thế Tân nói về Lê Thị Lựu và các bạn họa sĩ ở Pháp: Vũ Cao Đàm, Lê Phổ, Mai Trung Thứ.
