Nguyễn Đức Nùng (1914-1983). Phác thảo tranh Xô viết Nghệ Tĩnh.
1957. Bột màu trên giấy. 45,5 × 90,5 cm
Tác giả: Nguyễn Đức Nùng (1914-1983), Nguyễn Văn Tỵ (1917-1992), Phạm Văn Đôn (1918- 2000),
Nguyễn Sỹ Ngọc (1919-1990), Trần Đình Thọ (1919-2011), Huỳnh Văn Thuận (1921-2017)
Phác thảo tranh Xô viết Nghệ Tĩnh (tỷ lệ 1/1)
Năm sáng tác: 1957. Chất liệu: Tổng hợp. Kích thước: 145,5 × 320 cm
Tác giả: Nguyễn Đức Nùng (1914-1983), Nguyễn Văn Tỵ (1917-1992), Phạm Văn Đôn (1918- 2000),
Nguyễn Sỹ Ngọc (1919-1990), Trần Đình Thọ (1919-2011), Huỳnh Văn Thuận (1921-2017)
Tác phẩm: Xô viết Nghệ Tĩnh
Năm sáng tác: 1957. Chất liệu: Sơn mài (bốn tấm). Kích thước tổng: 160,6 × 320,5 cm
Hiện đang lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Tác giả: Nguyễn Đức Nùng (1914-1983), Nguyễn Văn Tỵ (1917-1992), Phạm Văn Đôn (1918- 2000),
Nguyễn Sỹ Ngọc (1919-1990), Trần Đình Thọ (1919-2011), Huỳnh Văn Thuận (1921-2017)
Tác phẩm: Xô viết Nghệ Tĩnh
Năm sáng tác: 1983 – 1984. Chất liệu: Sơn mài (sáu tấm). Kích thước tổng: 145 × 320 cm
Hiện đang lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Nghệ An – Xô viết Nghệ Tĩnh
“Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh” năm 1930 – 1931, đề tài lớn của ngành Mỹ thuật Việt Nam
Tại Phủ Chủ tịch, ngày 3 tháng 2 năm 1964, nhân kỷ niệm 34 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trước sự chứng kiến của lãnh đạo Bộ Văn hóa, lãnh đạo hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh… Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lời đề tựa cho Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh (lúc này thành lập được bốn năm) những dòng sau:
“Năm 1930-1931, khi Đảng ta mới ra đời, một phong trào cách mạng lớn mạnh đã dâng lên trong cả nước mà đỉnh cao nhất là Xô-viết Nghệ Tĩnh.
Xô-viết Nghệ Tĩnh là chính quyền cách mạng đầu tiên của công nông đã lật đổ chính quyền phản động của đế quốc và phong kiến ở mấy nơi trong tỉnh Nghệ Tĩnh…
Dù đế quốc Pháp và bọn phong kiến đã tạm thời nhận chìm phong trào cách mạng trong biển máu nhưng truyền thống oanh liệt của Xô-viết Nghệ Tĩnh đã thúc đẩy phong trào cách mạng trong cả nước tiến lên và đưa đến cách mạng Tháng Tám thành công rực rỡ…” 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lời đề tựa cho Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh
15 năm sau phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình – Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa… mở ra một kỷ nguyên độc lập mới cho dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945
Năm 1957, Hội Mỹ thuật Việt Nam được nhận sáng tác một bức tranh lớn về phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh – nhân dịp Kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười Nga. Điều này cho thấy tầm quan trọng của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh trong lịch sử đấu tranh cách mạng Việt Nam.
Sau gần 70 năm kể từ ngày thành lập, cụm hiện vật mỹ thuật Xô viết Nghệ Tĩnh vẫn là một trong những thành tựu xuất sắc mà Hội Mỹ thuật đã đóng góp trong dòng chảy lịch sử cách mạng và Mỹ thuật Việt Nam.
Những giá trị đặc biệt của tác phẩm Xô viết Nghệ Tĩnh
Một tác phẩm nghệ thuật quan trọng luôn bao gồm ba giá trị lớn: Lịch sử, văn hóa và nghệ thuật. Với (cụm hiện vật) tác phẩm “Xô viết Nghệ Tĩnh”, giá trị quan trọng nhất chính là giá trị lịch sử.
Giá trị lịch sử
Tác phẩm Xô viết Nghệ Tĩnh được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao nhiệm vụ cho Hội Mỹ thuật Việt Nam sáng tác và Người trực tiếp duyệt phác thảo.
Ngày 19 tháng 12 năm 1951, tại Chiêm Hóa, gần ATK, tức An toàn khu (Việt Bắc) trong rừng già, nơi đặt trụ sở đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp đã diễn ra một sự kiện quan trọng trong đời sống Văn nghệ kháng chiến. Sự kiện đã đi vào lịch sử với cái tên: Triển lãm hội họa 1951, đơn vị tổ chức là Hội Văn nghệ Việt Nam.
Triển lãm này có ý nghĩa quan trọng, vượt ra ngoài khuôn khổ của một hoạt động văn hóa đơn thuần. Có thể nói, triển lãm như một tuyên ngôn về ý chí phấn đấu của giới văn nghệ sĩ nói chung và giới mỹ thuật nói riêng. Đặc biệt, triển lãm còn vinh dự đón nhận sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi các họa sĩ trong triển lãm được thay mặt toàn bộ giới mỹ thuật đón nhận lá thư Người gửi Triển lãm Hội họa 19512 với những dòng chữ bất hủ cho mọi thế hệ văn nghệ sĩ cả nước.
“Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận/Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.”
Sáu năm sau lá thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 3 năm 1957, Hội Mỹ thuật Việt Nam được thành lập với 108 đại biểu. Đây cũng là Đại hội đầu tiên của ngành – được họp tại nhà số 1 phố Bà Triệu với sứ mệnh lịch sử như trong thư Người căn dặn:
“…Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh.”.
“…Về sáng tác, thì cần hiểu thấu, liên hệ đi sâu vào đời sống của nhân dân. Như thế, mới bày tỏ được cái tinh thần anh dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp… phát triển và nâng cao tinh thần ấy…”.
Với sứ mệnh tinh thần trong lá thư, ngay sau khi Hội Mỹ thuật được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gợi ý đề tài một bức tranh lớn cho tập thể các họa sĩ của Hội sáng tác. Tác phẩm có chủ đề về phong trào đấu tranh của lực lượng công nhân và nông dân ở Nghệ An – Hà Tĩnh năm 1930-1931 chống thực dân Pháp – thường được gọi với cái tên Xô viết Nghệ Tĩnh (Tên gọi này xuất phát từ sự hình thành các “xã bộ nông” mà những người cộng sản gọi là “Xô viết”). Sau khi hoàn thiện, bức tranh sẽ được Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tham gia triển lãm tại Liên Xô nhân dịp Kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười (1917-1957). Sau đó, tác phẩm được trao tặng Chính phủ và nhân dân Liên Xô.
Bức phác thảo thứ nhất của Xô viết Nghệ Tĩnh được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp duyệt chọn.
Trong ảnh là các họa sĩ (từ trái sang Huỳnh Văn Thuận – đứng, Nguyễn Sỹ Ngọc, Nguyễn Văn Tỵ – đứng sau cùng,
Trần Đình Thọ, Phạm Văn Đôn và Nguyễn Đức Nùng).
Sau khi phác thảo tranh được hoàn thành, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp duyệt chọn, thống nhất với nhóm họa sĩ sẽ dùng chất liệu sơn mài truyền thống của hội họa Việt Nam. Theo nhật ký của họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ, bức tranh được thể hiện và hoàn thiện tại trụ sở 46 Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Nhóm tác giả đang hoàn thiện tranh sơn mài “Xô viết Nghệ Tĩnh”, năm 1957.
Cùng trong năm 1957, theo chủ trương chung của Nhà nước, Hội Mỹ thuật Việt Nam tiếp tục giao nhiệm vụ cho nhóm họa sĩ sáng tác thêm một bức tranh nữa với mục đích đem đi triển lãm lưu động ở 12 nước thuộc trong khối Xã hội Chủ nghĩa. Năm 1964, Hội Mỹ thuật đã bàn giao bức tranh lại (cùng với nhiều tác phẩm khác) cho Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam – lúc này đang trong giai đoạn chuẩn bị cơ sở vật chất để chính thức thành lập vào năm 1966.
Vì vậy, bức phác thảo thứ hai được hoàn thiện từ bức phác thảo lần thứ nhất với các chi tiết thêm và chỉnh sửa để cho bức phác thảo được hoàn thiện ở mức độ tốt nhất về bố cục và tạo hình. Hai bức tranh sơn mài lớn (cùng tên) hiện đang trưng bày ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (Hà Nội) và Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh (Nghệ An) đều được hoàn thiện trên bản phác thảo thứ hai này.
Trong lịch sử mỹ thuật thế giới, đã có không ít bản phác thảo gốc được đánh giá cao hơn cả tác phẩm hoàn chỉnh. Theo nhận định của nhiều chuyên gia, những phác thảo ấy không chỉ là bước đầu kỹ thuật, mà còn khiến cho ra đời những nghiên cứu sâu hơn về lịch sử, tư duy và cá tính sáng tạo của họa sĩ.
Một trong những giá trị nổi bật của phác thảo Xô viết Nghệ Tĩnh là đã truyền tải được cảm xúc nguyên bản của người nghệ sĩ; những rung động tức thì, trực tiếp, được thể hiện trong quá trình ghi chép, nghiên cứu hoặc sáng tác tại chỗ. Chính trong khoảnh khắc đó, tính chân thực đạt đến mức cao nhất, chưa bị can thiệp bởi hình tượng lý tưởng hay chỉnh sửa trong quá trình hoàn thiện tác phẩm.
Bức tranh có nhiều họa sĩ tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương tham gia nhất
Để chuẩn bị sáng tác tác bức tranh tầm vóc lớn và nhiều ý nghĩa này, Hội Mỹ thuật Việt Nam giao nhiệm vụ cho nhóm sáu họa sĩ bao gồm: Nguyễn Đức Nùng (1914 – 1983), Nguyễn Văn Tỵ (1917 – 1992), Phạm Văn Đôn (1918 – 2000), Nguyễn Sỹ Ngọc (1919 -1990), Trần Đình Thọ (1919 – 2011), Huỳnh Văn Thuận (1921 – 2017) trách nhiệm sáng tác. Họ đều là những họa sĩ tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, đã có nhiều thành tựu khi sáng tác tranh sơn mài và là những nghệ sĩ tiêu biểu của Mỹ thuật Việt Nam. Trong nhóm ấy, có họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ, khi đó đang là Tổng Thư ký đầu tiên của Hội Mỹ thuật Việt Nam – một vị trí không chỉ mang trọng trách nghề nghiệp mà còn mang trên vai trách nhiệm với đất nước. Đây là một vinh dự lớn cho Hội Mỹ thuật Việt Nam nói chung và nhóm họa sĩ thực hiện nói riêng.
Trích nhật ký của họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ
Từ tác phẩm Xô viết Nghệ Tĩnh – Một loại hình tranh lịch sử cách mạng được xác lập
Ở một số nước trên thế giới, dòng tranh lịch sử cách mạng có những sứ mệnh và mục đích khác nhau. Ví dụ như ở Liên Xô (cũ) là tuyên truyền chính trị nói chung, Bắc Triều Tiên là tuyên truyền về lãnh đạo, Pháp là tự do dân chủ phản đối áp bức. Ở Việt Nam, tranh lịch sử cách mạng là cổ động kháng chiến, lấy quần chúng nhân dân làm “đối tượng thể hiện chính” để truyền cảm hứng cho nhân dân thay vì lấy một nhân vật chính làm chủ thể.
Không những thế, tranh lịch sử cách mạng về nhân dân – quần chúng luôn có nội dung lành mạnh, tinh thần luôn có khí thế vươn lên, tiến tới chiến thắng… đòi hỏi hình ảnh phải cụ thể, nhân vật phù hợp, phong cảnh tiêu biểu, điển hình đúng với tính chất của sự kiện lịch sử đề cập đến.
Ví dụ như các tác phẩm Nông dân chống thuế năm 1930, 1960, sơn mài của Nguyễn Tư Nghiêm; Khởi nghĩa Nam Bộ năm 1940, 1960, sơn mài của Huỳnh Văn Gấm; Đánh chiếm Bắc Bộ Phủ của Nguyễn Đức Nùng; Biểu tình ban đêm ở Cẩm Xuyên, 1970, sơn mài của Lê Quốc Lộc…
Nguyễn Tư Nghiêm (1922-2016). Nông dân đấu tranh chống thuế. 1960. Sơn mài. Sưu tập BTMTVN
Huỳnh Văn Gấm (1922-1987). Khởi nghĩa Nam Kỳ 1940. 1960. Sơn mài. Sưu tập BTMTVN
Nguyễn Đức Nùng (1914-1983). Đánh chiếm Bắc Bộ Phủ. 1960. Sơn mài. Sưu tập BTMTVN
Lê Quốc Lộc (1918-1987). Biểu tình ban đêm ở Cẩm Xuyên. 1970. Sơn mài. Sưu tập BTXVNT
Qua những tư liệu trên, có thể thấy, từ tác phẩm Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1957, các họa sĩ Việt Nam đã phát triển thành một loại hình tranh lịch sử cách mạng của riêng Việt Nam. Trong đó, hình tượng “nhân vật chính” không được “cá nhân hóa” mà là toàn thể quần chúng nhân dân – khi họ đoàn kết, hành động như một chỉnh thể thống nhất, mang sức mạnh tượng trưng cho ý chí, niềm tin và khát vọng độc lập dân tộc.
Ngoài những giá trị lịch sử đặc biệt trên, tác phẩm Xô viết Nghệ Tĩnh còn chứa đựng trong đó rất nhiều hàm lượng giá trị nghệ thuật từ nhóm tác giả khi họ cảm nhận sâu sắc vai trò và trách nhiệm của người làm nghề khi nhận được nhiệm vụ Hồ Chủ Tịch giao. Ngoài việc soi tỏ lịch sử, họ còn nhiệm vụ quan trọng là dùng nghệ thuật tạo hình làm phương tiện truyền tải thông điệp về một trong những sự kiện quan trọng kiến tạo nên sự thành công của cách mạng.
Giá trị Nghệ thuật
Về mặt nghệ thuật, Xô viết Nghệ Tĩnh là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất chủ đề lịch sử và chiến tranh cách mạng Việt Nam. Bức tranh tái hiện cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh với khí thế sục sôi, sóng dậy của quần chúng nhân dân trong bối cảnh chịu sự đàn áp của đế quốc thực dân Pháp. Đây không phải là một cuộc biểu tình thông thường, đây là một cuộc chuyển mình lịch sử, nơi quần chúng nhân dân tự kiến tạo lịch sử cho mình.
Đằng sau mỗi tác phẩm hội họa lịch sử có tầm vóc lớn với hàng trăm nhân vật và nhiều lớp không gian… chắc chắn phải trải qua một quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc và bền bỉ của họa sĩ. Để xây dựng được một bố cục hoàn chỉnh, họa sĩ phải bắt đầu từ hàng chục, thậm chí hàng trăm bản ký họa và phác thảo: Từng dáng người, từng động tác tay, từng phục trang, ánh nhìn – tất cả đều cần được nghiên cứu từ tư liệu lịch sử, đời sống thật, và cả ký ức của những nhân vật có thật ngoài đời.
Với đề tài chiến tranh cách mạng, bố cục nhân vật không chỉ đông mà còn mang tính biểu tượng cao thì việc nghiên cứu hình thể, trang phục, thậm chí cả tâm lý nhân vật cùng với không gian kiến trúc của thời kỳ lịch sử đó lại càng được chú trọng.
Tất cả những bản ký họa đó, sau cùng được tập hợp lại, điều chỉnh trong mối tương quan giữa không gian và thời gian, để họa sĩ xây dựng lên bố cục tổng thể. Từng tuyến nhân vật không chỉ được khắc họa trong tranh bằng tạo hình, đường nét, màu sắc mà còn phải liên quan gắn kết chặt chẽ với bối cảnh kiến trúc, địa lý, và đặc trưng của bối cảnh lịch sử có thật. Nhất là những tác phẩm nhiều tính sử như Xô viết Nghệ Tĩnh.
Hiểu rõ những yếu tố quan trọng trên, nhóm họa sĩ ngay lập tức khẩn trương đi thực tế ở Nghệ An để ghi chép tài liệu để dựng phác thảo lớn với rất nhiều chi tiết phức tạp – khởi nguồn từ bản phác nhỏ, đơn giản thảo đầu tiên của họa sĩ Nguyễn Đức Nùng.
Trong bài viết “Nhớ về những ngày đầu thành lập Hội Mỹ thuật Việt Nam”3 của họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ có đoạn: “Một số tác giả đã về tận nhà cụ Hoàng Hanh ở Nam Đàn để nghiên cứu vẽ hình các tự vệ đỏ, về nghiên cứu trụ sở huyện Nam Đàn cũ mà tôi nhớ vẫn còn ghi chữ “Huyện đỏ Nam Đàn!”. Sau chuyến đi đó, cùng với những ghi chép tư liệu thực tế tại Nam Đàn, hàng trăm hình nghiên cứu nhân vật tại chỗ (chưa kể một số hình nghiên cứu từ trước nhưng có tính phù hợp) đã được nhóm họa sĩ ký họa đưa vào xây dựng bố cục nhân vật.
Tác phẩm tái hiện toàn cảnh sự kiện với hàng trăm nhân vật cùng hệ thống cảnh quan, kiến trúc và chi tiết lịch sử được thể hiện tỉ mỉ. Từ trang phục, cử chỉ, ánh mắt đến bố cục không gian đều được xây dựng trên cơ sở tư liệu lịch sử đáng tin cậy. Mỗi nhân vật ngoài giá trị tạo hình còn mang trong mình một câu chuyện, một thân phận riêng, phần lớn được khắc họa từ nguyên mẫu có thật trong đời sống hoặc lịch sử.
Xô viết Nghệ Tĩnh là một bức tranh hoành tráng về mặt bố cục, là kết quả của quá trình nghiên cứu công phu và lao động nghệ thuật nghiêm túc của nhóm tác giả. Chính sự hòa quyện giữa mỹ thuật – lịch sử – con người đã làm nên chiều sâu biểu cảm và sức sống đặc biệt cho tác phẩm, biến nó không chỉ là một bức tranh ghi lại sự kiện, mà là một bản trường ca bằng hình ảnh về lịch sử hào hùng của một dân tộc.
Trong bài Tham luận đọc trong Hội nghị Phê bình Triển lãm Mỹ thuật năm 19604 của họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ có đoạn:
“…Trước hết là làm sao phối hợp được những người đứng mẫu với nhân vật sinh động của lịch sử. Nhiều lúc vẽ xong một hình người thì thấy không phải là nhân vật của Xô viết Nghệ Tĩnh mà chỉ là những anh nông dân miền Bắc hay những ông cụ công chức đứng mẫu, với những động tác cứng đờ. Lúc này chúng tôi bàn nhau đưa vào phác thảo, dùng sức tưởng tượng rất nhiều để xây dựng nhân vật. Tuy có nghiên cứu nhân vật Nghệ Tĩnh tại chỗ, vẽ cảnh tại chỗ, nhưng vấn đề chính vẫn là phải sáng tạo lại cảnh và người thực ở trong trí tưởng tượng thì mới giải quyết được khó khăn vẽ người xưa mà hóa người nay, vẽ cảnh cũ mà hóa cảnh mới. Ngoài ra cũng còn một khó khăn nữa là phối hợp những động tác ăn khớp vào một hướng chuyển động nhất định của sự việc xảy ra. Làm sao tất cả những cánh tay giơ lên, những cặp mắt nhìn…?, từng đám người nhỏ hoạt động một đều xoay hướng cùng đối mặt với đám lính khố vàng và Tây lê dương mà các động tác và mỗi đám người đều có những động tác hợp lý, sinh động không giống nhau và không cứng đờ như người mẫu. Lúc đầu vẽ thì dễ thấy người này cãi nhau với người kia hay đám trước ngăn đường của đám sau tiến lên. Nói chung, chúng tôi đều cố gắng dùng trí tưởng tượng để sáng tạo ra hình ảnh lịch sử… của hiện tại mà dựng thành những nhân vật “thực”, bối cảnh “thực” của lịch sử cuộc khởi nghĩa Xô viết Nghệ Tĩnh…”
Ngoài ra cũng còn một khó khăn nữa là phối hợp những động tác ăn khớp vào một hướng chuyển động nhất định của sự việc xảy ra.
Làm sao tất cả những cánh tay giơ lên, những cặp mắt nhìn…?, từng đám người nhỏ hoạt động một đều xoay hướng (N.V.Tỵ)
Dù rất nhiều lớp lang nhân vật với hàng trăm dáng thế, hoặc nhìn trước, hoặc quay sau nhưng tất cả ánh nhìn
và sự chuyển động đều về một hướng tiến lên phía trước trong một không khí đấu tranh sôi sục. Đây là một điều rất khó
trong bố cục của những tác phẩm lớn trong việc ghi chép tạo hình nhân vật (N.V.Tỵ)
Đọc mới thấy hết những trăn trở, suy nghĩ của tác giả trong quá trình xây dựng tác phẩm. Để xây dựng các tuyến nhân vật đã khó, nhưng để lồng ghép các dữ kiện lịch sử vào toàn bộ cấu trúc bố cục sao cho hài hòa giữa tính lịch sử và nghệ thuật được đảm bảo độ chính xác đòi hỏi tác giả ngoài tư duy về sáng tạo còn phải bổ sung thêm nhiều kiến thức lịch sử.
Dòng chữ “Nam Đàn” trên kiến trúc cổng đã chỉ rõ địa danh nơi xảy ra cuộc biểu tình. Theo tư liệu, cuộc nổi dậy này diễn ra vào ngày 30 tháng 8 năm 1930 của nhân dân Nam Đàn. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng đã miêu tả cụ thể:“Trong lúc biểu tình, 3.000 nông dân Nam Đàn vây chặt văn phòng viên quan huyện, phá nhà tù và giải thoát tù nhân…”5
Cổng huyện Nam Đàn năm 1929 – kiến trúc này hiện nay không còn
Quan huyện đang ký vào biên bản giải phóng tù nhân (trích đoạn). Có thể nhóm họa sĩ
đã đọc được chi tiết này trong tư liệu và sử dụng vào tác phẩm. Đây là chi tiết quan trọng trong tác phẩm
thể hiện sự áp đảo của nhân dân với chính quyền đô hộ mà viên quan huyện là đại diện.
Chi tiết “quan trọng” này đã được nhóm tác giả nghiên cứu và đưa vào tác phẩm. Tiếp theo đó, những băng rôn biểu tình như “Giảm sưu thuế”, “Chống khủng bố trắng”, “Bãi bỏ các thứ thuế và bồi thường các gia đình bị tàn sát trong cuộc bạo động ở Yên Bái” đều là những sự kiện có thật trong lịch sử. Vì vậy, khi xem bức tranh này người yêu nghệ thuật cần trang bị thêm những kiến thức lịch sử về phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh thì mới có thể cảm nhận hết được tính quan trọng của sự kiện, sự dày công trong quá trình tìm hiểu lịch sử, xây dựng những chi tiết điển hình, bối cảnh câu chuyện của nhóm tác giả. Nó khiến cho người xem thêm trân quý những sáng tạo nghệ thuật vừa mang tính chân thực vừa khơi gợi lòng tự hào về truyền thống yêu quê hương tổ quốc… của mỗi người Việt Nam.
Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh cũng là nơi đầu tiên “trong lịch sử dân tộc, lá cờ đỏ mang biểu tượng búa liềm tung bay,
vẫy gọi công nông vùng lên đấu tranh, lập nên các “làng Đỏ” ở nhiều thôn xã hai tỉnh Nghệ An – Hà Tĩnh
Ngoài tạo hình hàng trăm nhân vật với các dáng thế khác nhau, có một “đạo cụ biểu tượng” quan trọng được đặt ngay tiền cảnh tác phẩm với các họa tiết hoa văn trang trí cổ “rồng mây” cho thấy sự tinh tế trong cách “hiểu sử” của các tác giả.
Theo các tư liệu, “tiếng trống trong cao trào cách mạng Xô viết Nghệ Tĩnh” là linh hồn các cuộc đấu tranh. Tiếng trống được quần chúng nhân dân sử dụng như một vũ khí, góp phần tạo nên cơn bão táp cách mạng thời kỳ 1930 – 1931. Tiếng trống là hiệu lệnh tập hợp quần chúng xuống đường đấu tranh, thay lời hiệu triệu làng trên xóm dưới, xã và tổng liên kết thành khối thống nhất. Ngoài ra, tiếng trống còn là tín hiệu để bảo vệ tổ chức Đảng trước kẻ thù.
Trong cuốn “Đông Dương cấp cứu” của André Violette- nữ nhà báo Pháp có viết: “Trong các cuộc đấu tranh ở Nghệ An, Hà Tĩnh, quần chúng đã dùng tiếng trống để làm vũ khí áp đảo quân thù”.
Tạo hình chiếc trống trên mặt tác phẩm
Chiếc trống của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh đang được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng XVNT
Hiện nay, nhiều chiếc trống biểu tượng làm nên “Tiếng trống năm 30” của cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh đang được lưu giữ như những nhân chứng quan trọng của ký ức lịch sử Việt Nam.
Từ ký ức hào hùng đến phát huy truyền thống và tiếp nối tinh thần cách mạng
Ký ức hào hùng
Có những thời khắc quan trọng của lịch sử chiến tranh đầy máu và nước mắt, nếu được ghi nhớ lại sẽ sống mãi trong ký ức các thế hệ.
Từ ngày 2 tháng 9 năm 1945 khi Hồ Chủ Tịch đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là 30 năm chiến tranh gian khổ của toàn quân và dân.
Trong suốt 30 năm ấy, các họa sĩ, tuy không đứng ở tuyến đầu như những chiến sĩ trực tiếp chiến đấu trên chiến trường nhưng nhiều họa sĩ cũng đã tham gia các chiến dịch lớn như chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, chiến dịch Mậu Thân năm 1968…và các vùng đất khói lửa như Vĩnh Linh – Quảng Bình… Có những họa sĩ – chiến sĩ đã hy sinh trên chiến trường như Tô Ngọc Vân (1906-1954). Họ đã góp phần yêu nước bằng việc sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật phản ánh chân thực cuộc chiến bằng tất cả niềm tin, hy vọng…
Đến nay (2025), sau gần 70 năm, kể từ khi sáu họa sĩ danh tiếng cùng nhau thực hiện nhiệm vụ đặc biệt được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao: Xây dựng bản phác thảo và hoàn thiện trên chất liệu sơn mài thì tác phẩm Xô viết Nghệ Tĩnh không chỉ là sự ghi chép tư liệu lịch sử bằng hình, mà đã làm nên một cụm hiện vật biểu tượng cho cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh – là tiếng nói từ quá khứ vọng về hôm nay, nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của cách mạng nhân dân.
Điều này cho thấy, khi người họa sĩ thấu hiểu sâu sắc tình yêu quê hương, lòng tự tôn dân tộc, truyền thống cách mạng và truyền được vào tác phẩm thì “người nghệ sĩ cũng chính là người chiến sĩ”.
Phát huy truyền thống các thế hệ trước – Nghệ thuật phục vụ đất nước
Với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc qua hàng ngàn năm. Với lý tưởng cách mạng được các thế hệ họa sĩ đi trước đã xây dựng, các họa sĩ trẻ ngày nay tiếp nối truyền thống vẻ vang ấy trong vinh dự, tự hào và trách nhiệm.
Hiện nay, trong “kỷ nguyên vươn mình” mới của dân tộc, sự tri ân, ghi nhớ công lao của cha ông được thể hiện trong nhiều hoạt động thiết thực của các cơ quan, đơn vị. Những tượng đài, những công trình tưởng niệm, những cuộc vận động sáng tác mỹ thuật, những cuộc thi sáng tác về cách mạng, về lực lượng vũ trang… được tổ chức thường xuyên không chỉ để kỷ niệm những ngày lễ lịch sử lớn của dân tộc mà còn ghi dấu thêm vào kho tàng văn hóa, nghệ thuật Việt Nam.
Vì vậy, dù có nhiều đề tài phong phú để các họa sĩ trẻ lựa chọn… nhưng khi các hội đoàn tổ chức các cuộc sáng tác chuyên đề lịch sử, họ vẫn dành nhiều sáng tác của mình cho đề tài lịch sử chiến tranh cách mạng và xây dựng quê hương đất nước. Họ coi đó chính là những cơ hội quý dùng mỹ thuật làm phương tiện để bày tỏ lòng niềm tin yêu với đất nước mà họ đã được truyền dạy.
Niềm tin yêu ấy không chỉ thể hiện trong những sáng tác, mà luôn là ngọn lửa âm ỉ cháy trong tim, sẵn sàng bùng lên khi Tổ quốc cần. Ánh nhìn của họ luôn hướng về tương lai, luôn rực sáng niềm tự hào khi nhìn lại quá khứ; lấy đó làm động lực để bước chân vững vàng đi giữa những con đường mới, trong sự ghi nhớ biết ơn dấu chân cha ông trên con đường cách mạng xưa…
Tiếp nối tinh thần cách mạng
Để đổi lấy hòa bình ngày hôm nay; để nụ cười luôn rạng rỡ trên khuôn mặt thơ ngây các em bé; để ánh mắt ấm áp, bình yên luôn hiện trên khuôn mặt người già; để ánh mắt kiên nghị, rực cháy, lấp lánh ánh sáng của niềm tin luôn tỏa sáng trên khuôn mặt thế hệ trẻ… các thế hệ cha ông ta đã để lại lịch sử hàng nghìn năm tranh đấu cho độc lập dân tộc mà cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 là một trong những điển hình.
Sau 95 năm, “Tiếng trống năm 30”, linh hồn của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh đã trở thành biểu tượng cách mạng quần chúng nhân dân, còn vang vọng mãi…
Ngày hôm nay, tại mảnh đất anh hùng Nghệ An – Hà Tĩnh, những tiếng trống rộn rã khác sắp vang lên khắp các trường học – Tiếng trống khai trường. Chúng ta lại nhớ đến lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn trong “Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa”6, ngày 15 tháng 9 năm 1945:
“…Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.
Chú thích trong bài:
- Https://btxvnt.org.vn/chi-tiet-bai-viet/nguyen-ai-quoc-doi-voi-phong-trao-xo-viet-nghe-tinh
- Báo Cứu quốc, số 1986, ngày 5 tháng 1 năm 1952.
- “Nhớ về những ngày thành lập Hội Mỹ thuật Việt Nam” của họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ in trên báo Độc lập ngày 15 tháng 4 năm 1987.
- Theo tư liệu gia đình họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ.
- Hồ Chí Minh – Toàn tập, tập 3, Nxb.Chính trị Quốc gia – Sự thật. 2011.
- Hồ Chí Minh – Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, 2011.
Bài viết bởi Viet Art View
Bản quyền thuộc về Viet Art View