Từ những bức tranh thế kỉ 17 vẽ trái mộc qua và hoa hồng mang thông điệp, đến những suy ngẫm đương thời về cuộc sống và tự sự, 10 bức tĩnh vật sau đây đã một lần nữa định nghĩa cho thể loại này
Fede Galizia ‘Một li rượu với đào, hoa nhài, mộc qua và một con châu chấu’ khoảng 1600
Theo truyền thống, việc lập ra thể loại tranh tĩnh vật trái cây được coi là thành tựu của Caravaggio (1571-1610), người đã tạo ra ‘Giỏ trái cây’ nổi tiếng của mình vào một thời điểm nào đó giữa năm 1597 và 1600. Tuy nhiên, trong vòng vài năm, hoặc thậm chí có thể vài tháng sau khi bức tranh đó được hoàn thành, một họa sĩ người Milan khác, Fede Galizia (1578-1630), đã mở đầu một seri sơn dầu với chủ đề tương tự Caravaggio.
Fede Galizia (1578-1630) ‘A glass compote with peaches, jasmine flowers, quinces and a grasshopper’ khoảng 1600. Sơn dầu trên ván. 12 × 16¾ in (30.5 × 42.5 cm). Đã bán $1,640,000
‘Li rượu với đào, hoa nhài, mộc qua và một con châu chấu’ được vẽ vào những năm đầu tiên của thập niên 1600, minh chứng khả năng làm chủ thể loại mới của Galizia trong việc quan sát chính xác và điều chỉnh ánh sáng cũng như bóng tối để mang lại một đời sống sinh động cho động vật, thực vật trong tranh. Tranh của cô, giống như Caravaggio’s, chứa đựng một thông điệp: con châu chấu, biểu tượng của thời gian đã qua, được đặt bên cạnh trái mộc qua đã cắt, đại diện cho sự sinh sôi. Cùng một lúc, những điều này gợi một cảm giác mong manh thoáng qua của cuộc sống.
Năm 1630, Galizia mất vì bệnh dịch. Giống như hầu hết các họa sĩ nữ cùng thời, bà đã bị phủ nhận trong lịch sử nghệ thuật, những bức tranh tĩnh vật trái cây tiên phong của bà bị cho là thuộc về những người đàn ông cùng thời.
Rachel Ruysch, ‘Tuy líp, hoa hồng, kim ngân hoa, hoa táo, anh túc, các loài hoa khác trong bình thủy tinh, một con bướm, trên gờ đá cẩm thạch’ đầu những năm 1690
Nghề làm vườn từng là xu hướng mới nhất ở Hà Lan trong thế kỉ 17. Suốt những năm 1630, thị trường củ hoa được thèm muốn nhất đã đạt đỉnh chóng mặt, người ta gọi thời kỳ này là “cơn điên hoa tuy líp”.
Trong bối cảnh ám ảnh này, các họa sĩ như Jan Brueghel the Elder (1568-1625) và Ambrosius Bosschaert (1573-1621) đã cho ra đời những bức tranh đầu tiên dành riêng cho hoa. Tuy nhiên, người nâng tầm thể loại này lại là con gái của một vị giáo sư tại vườn bách thảo Amsterdam.
Rachel Ruysch (1664-1750) ‘Tuy líp, hoa hồng, hoa táo, anh túc, các loài hoa khác trong bình thủy tinh, một con bướm, trên gờ đá cẩm thạch’ khoảng đầu những năm 1960. 30 × 24¾ in (76.3 × 62.8 cm). Đã bán £412,500
Rachel Ruysch (1664-1750) được ca ngợi trong suốt cuộc đời vì các tác phẩm khác thường, bất đối xứng, chi tiết một cách đáng kinh ngạc. Bà đã cẩn thận, từng phút một, vẽ từng chiếc lá và cánh hoa. Vượt qua hàng dài những người đàn ông nổi trội, bà trở thành họa sĩ của hoàng gia, làm việc cho Johann Wilhelm, Tuyển hầu tước Palatine. Những bức tranh hoa của bà được bán với giá tiền ấn tượng — lên đến 1200 guilder mỗi bức. Khi Rachel Ruysch qua đời, một tập thơ đã được xuất bản để tôn vinh bà, các tác giả tuyên bố Rachel Ruysch là “nữ thần nghệ thuật”, người đã tạo ra những bức tĩnh vật sẽ tồn tại vĩnh viễn.
Jean-Baptiste Siméon Chardin, ‘Một con thỏ chết và cái túi’ khoảng những năm 1720
Năm 1728, Jean-Baptiste Siméon Chardin (1699-1779) mang đến hai bức tranh để được xét duyệt vào Học viện Paris. Một là ‘The Ray’ (Cá), vẽ chiếc bàn sẫm màu để đồ dùng nhà bếp và hải sản vấy máu; cái còn lại là ‘The Buffet’, diễn tả một kim tự tháp trái cây nổi bật trong bóng tối. Điều làm cho tác phẩm của ông trở nên khác thường là chúng đến vào lúc nghệ thuật Rococo đang là đỉnh cao thời thượng ở Pháp, với những màu phấn nhẹ nhàng và chủ đề lãng mạn.
Lờ đi sở thích thịnh hành, Chardin quay trở lại với các bậc thầy người Hà Lan và Flemish như Rembrandt (1606-1669) và Frans Snyders (1579-1657), tập trung vào chủ nghĩa hiện thực và phẩm chất trầm mặc của tĩnh vật. Bước đi táo bạo này đã khiến ông được nhiều người ngưỡng mộ — đặc biệt là Louis XV (1710-1774), vị vua đã bổ nhiệm ông làm họa sĩ của mình và thưởng một khoản lương hưu kếch xù cùng một phòng ở trong cung điện Louvre.
Jean-Baptiste Siméon Chardin (1699-1779) ‘Một con thỏ chết và chiếc túi’ khoảng những năm 172s. Sơn dầu trên toan. 28⅜ × 21⅞ in (72.2 × 55.6 cm). Đã bán £1,006,500
Một thế kỷ sau, bố cục phóng khoáng và sự nhấn mạnh vào màu sắc so với đường nét trong những tác phẩm của Chardin đã góp phần hình thành chủ nghĩa Ấn tượng (‘A Dead Rabbit and a Satchel’ ảnh hưởng rõ ràng nhất đến tác phẩm năm 1886 ‘Rabbit’ của Manet), chúng cũng ảnh hưởng đến tranh tĩnh vật thế kỷ 20 của các họa sĩ như Georges Braque (1882-1963) và Giorgio Morandi (1890-1964).
Paul Cézanne, Bouilloire et fruits (Kettle and Fruits) [Cái ấm và trái cây], 1880-1890
Paul Cézanne (1839-1906) was a master of the still-life painting. The range of compositional strategies he used was unprecedented in the Western tradition. As the art critic and painter Roger Fry (1866–1934) wrote in 1926, Cézanne’s paintings were not about apples and pears but shapes: spheres, cones and cylinders. By relentlessly scrutinising space, colour and line, he created the purest form of figurative art and reframed the still life for good.
Paul Cézanne (1839-1906) là một bậc thầy tranh tĩnh vật. Những chiến lược xây dựng bố cục mà ông sử dụng là chưa từng có trong hội họa phương Tây truyền thống. Như nhà phê bình nghệ thuật và họa sĩ Roger Fry (1866–1934) đã viết vào năm 1926, các bức tranh của Cézanne không phải về táo và lê mà là các hình dạng: hình cầu, hình nón và hình trụ. Bằng cách không ngừng xem xét kỹ lưỡng không gian, màu sắc và đường nét, ông đã tạo ra hình thức nghệ thuật tượng hình thuần túy nhất, tái tạo cách thể hiện tranh tĩnh vật.
Paul Cézanne (1839-1906) ‘Bouilloire et fruits’ 1880-1890. Sơn dầu trên toan. 19⅛ × 23⅝ in (48.6 × 60 cm). Đã bán $59,295,000
Tuy nhiên, cha đỡ đầu của nghệ thuật hiện đại không đứng ngoài cảm xúc. Với các thành phần trái cây, bình cà phê và bộ đồ ăn, ông đã xây dựng một hình ảnh thân mật của đời sống thế kỷ 19. ‘Bouilloire et fruits’ (1880-1890), được bán tại Christie’s vào năm 2019 từ bộ sưu tập S.I. Newhouse, mang đến trải nghiệm nghệ thuật sâu sắc về cuộc sống Provençal [miền nam nước Pháp].
Samuel John Peploe ‘Tuy líp và bình cà phê’ khoảng 1905
Họa sĩ hiện đại táo bạo Samuel John Peploe (1871-1935) đã dành sự nghiệp của mình để tạo ra những bức tranh tĩnh vật hoàn hảo, viết vào năm 1929 rằng “có rất nhiều vật thể đơn thuần, hoa, lá, bình, những thứ không phải là — màu sắc, hình dạng, mối quan hệ — những bí ẩn không hồi kết”.
Trải qua những năm 1890 học tập và du lịch ở Pháp, khám phá tác phẩm của các trường phái Ấn tượng Pháp, Peploe trở về Edinburgh được tiếp thêm sinh lực với ý tưởng phát triển Chủ nghĩa Hiện đại Scotland. Lấy cảm hứng từ ánh sáng phương Bắc xanh và lạnh giá, Peploe bắt tay vào thực hiện một loạt bức tranh tĩnh vật trong trẻo như kết tinh trên bề mặt của các đồ vật.
Samuel John Peploe (1871-1935) ‘Tuy líp và bình cà phê’ khoảng 1905. Sơn dầu trên ván. 10¼ × 12 in (26 × 30.5 cm). Ước tính: £200,000-£300,000
‘Tuy líp và bình cà phê’ khoảng 1905, tương đồng về phong cách và chủ đề với ‘Bình cà phê’, được vẽ cùng khoảng thời gian, đã bán tại Christie’s năm 2011, thu về £937,250, một mức giá kỉ lục của họa sĩ.
Vanessa Bell ‘Bình hoa mùa thu’ 1912
‘Bình hoa mùa thu’ là một trong số ít những bức tranh tĩnh vật thời kỳ đầu của Vanessa Bell (1879-1961) còn sót lại sau vụ đánh bom xưởng vẽ của cô trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Người ta cho rằng bức tranh được thực hiện vào tháng 9 năm 1912, trong một đợt rét khiến họa sĩ Bloomsbury và người tình, Duncan Grant, phải vẽ trong nhà.
Vanessa Bell (1879-1961) ‘Bình hoa mùa thu’ 1912. Sơn dầu trên ván. 28¾ × 20⅜ in (73 × 51.7 cm). Ước tính: £25,000-35,000
Bức tranh là một bản giao hưởng của màu sắc. Hai năm trước đó, Bell đã tham dự một cuộc triển lãm trường phái Hậu ấn tượng của Pháp ở London, nơi truyền cảm hứng cho cô sử dụng màu sắc táo bạo hơn và theo đuổi phong cách trừu tượng.
Giống như các họa sĩ Berthe Morisot và Mary Cassatt trước đó, Bell nhận ra rằng không gian trong nhà có thể là nơi thử nghiệm triệt để. Charleston, ngôi nhà của cô ở Sussex, đã trở thành một thử nghiệm đổi mới trong hội họa và thiết kế. Sử dụng nhiều phong cách và kỹ thuật khác nhau, cô sơn tường và đồ nội thất, biến nội thất thành một nơi hoàn toàn đắm chìm trong nghệ thuật.
Juan Gris, Nature morte à la nappe à carreaux (Tĩnh vật với khăn trải bàn ca rô) 1915
Tranh tĩnh vật đã trải qua một sự thay đổi triệt để trong thế kỷ 20, khi các họa sĩ hiện đại từ chối không gian yên tĩnh trong nhà để ủng hộ không gian công cộng. Các họa sĩ lập thể như Picasso, Braque và Juan Gris (1887-1927) đã tìm thấy nguồn cảm hứng trong các nhà hàng và quán bar, lặp lại lời khẳng định nổi tiếng của Charles Baudelaire rằng các họa sĩ hiện đại là những người đàn ông của đám đông, những người đã nguyền rủa những giờ phút ở trong nhà, nhận lấy nhiệm vụ ghi lại “cảnh quan tuyệt vời của thành phố”.
Juan Gris (1887-1927) ‘Nature morte à la nappe à carreaux’ 1915. Sơn dầu trên toan, 45⅞ × 35⅛ in (116.5 × 89.3 cm). Đã bán £34,802,500
Nature morte à la nappe à carreaux, hiện được giữ tại Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan, New York, diễn tả các vật dụng hằng ngày trong một quán cà phê: chai và ly rượu, khăn trải bàn ca rô, báo, đàn ghi ta. Hình dạng và kết cấu lặp lại và vang dội khắp bố cục, tạo nên một đối thoại thơ mộng giữa các đối tượng. Bức tranh được bán tại Christie’s vào tháng 2 năm 2014 với giá 34,802,500 bảng Anh, mức giá cao nhất trong những tác phẩm của họa sĩ.
Man Ray, L’Etoile de mer (Sao biển), 1928
Khi chủ nghĩa Siêu thực xuất hiện ở Paris phóng túng vào những năm 1920, đó là môn triết học mang tính cách mạng dựa trên ý tưởng rằng trí óc có khả năng tưởng tượng, mơ ước và phát minh vô hạn.
Nhiếp ảnh gia người Mỹ Man Ray (1890-1976) là người mở đầu cho khái niệm này và đã tạo ra những bức ảnh tĩnh vật biến những vật dụng hàng ngày thành những vật thể ma thuật, gần như linh thiêng. ‘L’Etoile de mer’ là một ví dụ điển hình về chủ nghĩa Siêu thực ‘thuần túy’, trong đó ông dàn xếp các cuộc gặp gỡ giữa các vật thể khác nhau.
Man Ray (1890-1976) ‘L’Etoile de mer’ 1928. In gelatine bạc. 9 × 11¾ in (22.9 × 29.2cm). Ước tính: €8,000-10,000
Việc đưa một con sao biển vào làm đối tượng tĩnh vật trong nhà đã làm đảo lộn bản chất bình dị của khung cảnh, và gợi ý rằng mỗi đối tượng mà Man Ray chọn đều mang một ý nghĩa tiềm ẩn.
Patrick Caulfield, ‘Bình Arita: Đen’ 1989
Vào những năm 1960, nghệ thuật đại chúng tôn vinh nền văn hóa tiêu dùng với những bức tranh thản nhiên về hộp súp và hộp ngũ cốc với màu sắc tươi sáng. Các tác phẩm của Patrick Caulfield (1936-2005), với sự miêu tả vô cảm về các vật dụng trong nhà, thường được mô tả là nghệ thuật Pop, nhưng họa sĩ người Anh thực sự ghét thuật ngữ này và không quan tâm đến các xu hướng nghệ thuật xuất phát từ London và New York. Ông lấy cảm hứng từ chủ nghĩa Hiện đại của Pháp, và đặc biệt là các bức tranh tĩnh vật theo trường phái Lập thể của Juan Gris.
Patrick Caulfield (1936-2005) ‘Bình Arita: Black’ 1989. Acrylic trên ván. 30½ × 20½ in (77.5 × 52 cm). Ước tính: £25,000-35,000
Những hình phẳng của Caulfield mô tả về ly rượu, lọ hoa sơ sài và nội thất nhà hàng bằng ván bần, như ông đã từng giải thích, là một cách để giảm thiểu thử nghiệm cấp tiến trong hội họa vào đầu thế kỷ 20 thành “một kiểu tốc ký”. Ông tiếp thu những điều vô vị của cuộc sống hiện đại và tái tạo chúng trong tranh tĩnh vật như những vật thể kỳ lạ có riêng một bầu không khí và tâm trạng.
Jonas Wood ‘Tĩnh vật chiếc kệ lớn’ 2017
Họa sĩ Jonas Wood (sn. 1977) vẽ tranh tĩnh vật để khám phá câu chuyện của chính mình. Anh từng nói “Tôi sẽ không vẽ những gì không liên quan đến tôi.”
Trong các bức tranh về cây cối trong nhà và các đồ vật khác, anh đề cập đến thời thơ ấu và những thứ anh đã cùng lớn lên, cũng như ám chỉ đến các tác phẩm nghệ thuật lớn đã truyền cảm hứng cho anh, trong số đó là hình cắt của Henri Matisse và các tác phẩm điêu khắc chuyển động của Alexander Calder.
Jonas Wood (sn. 1977) ‘Tĩnh vật chiếc kệ lớn’ 2017. In màu. 23 × 23 in (58.4 × 58.4 cm). Ước tính $1,000-1,500
Phong cách tạo hình phẳng, dày đặc của Wood gợi đến những tác phẩm cắt dán trường phái Lập thể của Picasso và Braque, và nhiếp ảnh Siêu thực. Với phong cách đồ họa táo bạo, các bức tranh của họa sĩ có thể trông đơn giản, nhưng trên thực tế, chúng là những nghiên cứu phức tạp và năng động về tỷ lệ, kết cấu, hoa văn và màu sắc.
Nguồn: Christie’s
Lược dịch bởi Viet Art View