Khi Sotheby’s giới thiệu ‘The Beautiful and Damned’ [Cái đẹp và địa ngục], một nhóm các tác phẩm được tạo ra trong những năm hỗn loạn trước và trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Kevin Jackson đã khám phá lý do tại sao đây là thời điểm quan trọng đối với nghệ thuật.
Những nghệ sĩ, như nhà thơ người Mỹ Ezra Pound đã viết không lâu trước khi Đại chiến bùng nổ, là những ‘ăng ten của cuộc đua’: họ nhìn thấy, cảm nhận được những gì sắp xảy ra trước cả các nhà báo và chính trị gia. Câu cách ngôn của Pound thường bị chế giễu, nhưng vào đầu thế kỷ 20, luận điểm của ông có vẻ có cơ sở. Ngay từ năm 1909, những người theo chủ nghĩa Vị lai ở Ý — những người mà hình ảnh sáng chói đã tồn tại lâu dài hơn tư tưởng xấu xa và ngu xuẩn của họ — không chỉ là nhìn thấy chiến tranh sắp xảy ra, họ còn háo hức chờ đón nó. “Chúng tôi tôn vinh chiến tranh”, nhà thơ Marinetti, lãnh đạo của phong trào Vị lai Ý, đã khoe khoang trong Tuyên ngôn Vị lai, coi xung đột quân sự như phương tiện để thanh trừng một châu Âu suy đồi khỏi những hoài niệm và nền dân chủ của nó và khẳng định những giá trị nam tính cao quý. Họ sẽ không phải chờ đợi lâu.
Ludwig Meidner ‘Apokalyptische Landschaft (Phong cảnh Khải huyền) Junger Mann mit Strohhut (Người đàn ông trẻ tuổi với chiếc mũ rơm) – mặt trái’
Ở thái cực khác của lời tiên tri về chiến tranh là họa sĩ Ludwig Meidner, người có series Phong cảnh Khải huyền năm 1912, diễn tả chính xác đến kỳ lạ về những điều kinh hoàng sắp xảy ra: sao chổi như đường đạn xé toạc bầu trời, những con người kinh hãi chạy trốn, những tòa nhà ngả nghiêng trên bờ vực của sự sụp đổ, những hình dạng méo mó đau đớn. Đó là một bộ tác phẩm đáng kinh ngạc, và Meidner chưa từng kết hợp cùng điều gì như thế.
Cả Marinetti và Meidner đều nên được lưu ý khi nghĩ về ảnh hưởng của Đại chiến đối với nghệ thuật. Các nhà sử học văn hóa thường viết về sự nở rộ đáng kinh ngạc của nghệ thuật sau năm 1918 — phần lớn là một phản ứng chống lại sự tàn sát hàng loạt của các chiến hào — một phản ứng tương phản với tâm trạng hào hứng của giới nhà giàu khiến những năm 1920 được gọi là Thời đại nhạc Jazz, hay còn gọi là les années folles, hay Roaring Twenties [Những năm 20 ồn ào]. Đó là một cuộc chơi kéo dài cho đến khi Phố Wall sụp đổ năm 1929. Hạnh phúc là thức dậy lúc bình minh, vẫn còn sống, và được ở Paris với đồng tiền Mỹ thật sự là thiên đường.
Tuy nhiên, sự nở rộ này có gốc gác sâu xa hơn, từ năm 1900 hoặc sớm hơn nữa. Trong nghệ thuật, thập niên đầu tiên của thế kỷ 20 là thời kỳ hoàng kim của ‘chủ nghĩa’: chủ nghĩa Vị lai (Ý và Nga), chủ nghĩa Biểu hiện (khoảng năm 1905, với một số tiền thân quan trọng), chủ nghĩa Dã thú, chủ nghĩa Lập thể (do Picasso và Braque sáng tạo và phát triển từ 1909–14), chủ nghĩa Vortic (phần lớn là sáng tạo của Ezra Pound), chủ nghĩa Tưởng tượng, chủ nghĩa Hình tượng (trong nhiếp ảnh), tất cả sẽ tiếp tục ở Liên Xô mới bởi chủ nghĩa Siêu việt và chủ nghĩa Kiến tạo, một khoảnh khắc kỳ diệu của sáng tạo sớm bị nghiền nát dưới chân Stalin. Nhìn lại, chúng ta tập hợp tất cả các phong trào khác nhau này dưới tiêu đề chủ nghĩa Hiện đại.
Franz Marc ‘Kühe (Những con bò)’ 1912
Chủ nghĩa duy nhất được tạo ra sau năm 1918 là Siêu thực, chính thức vào năm 1924, bởi nhà thơ André Breton, ông từng là bác sĩ Quân đội Pháp, người đã bị mê hoặc bởi những người lính loạn thần kinh và thậm chí là mất trí mà mình đã điều trị. Điều trớ trêu là việc điều trị cho những người đàn ông điên loạn vào thời điểm mà hàng triệu binh sĩ bị ném bom, bắn và chết theo mệnh lệnh của các tướng lĩnh có lý trí tự tin chưa bao giờ hết ảnh hưởng lên Breton.
Chủ nghĩa siêu thực không đơn giản là một phong trào nghệ thuật. Nó là sự phản đối bạo lực, chống lại một nền văn minh đã háo hức chấp nhận sự man rợ. Nhóm của Breton thích thú với ý kiến gây bất bình: ‘Cuộc chiến? Đã cho chúng tôi một trận cười lớn!’ Ngoài chiến tranh, ảnh hưởng lớn khác đối với Breton là cuộc cách mạng vô chính phủ nhất trong tất cả các cuộc cách mạng văn hóa, phong trào Dada sinh ra ở Thụy Sĩ trung lập. Dada có thể được mô tả theo nhiều cách — một số nhà bình luận thậm chí đã coi nó như một hiện tượng huyền bí — nhưng bản chất của nó là một cuộc tấn công vào trật tự, lý trí, nghệ thuật truyền thống và bản thân ngôn ngữ: tất cả các đức hạnh phương Tây đã đến hồi kết trong sự hỗn loạn của mặt trận phương Tây. Mặc dù nó chỉ có một số người ủng hộ — chủ yếu là Tristan Tzara, Hugo Ball và Hans Arp — ảnh hưởng của nó vẫn còn mạnh mẽ cho đến ngày nay.
Những người theo chủ nghĩa Dada đã may mắn được miễn nghĩa vụ quân sự. Hầu hết các nghệ sĩ khác thì không. Trận Đại chiến là lần đầu tiên chiến tranh diễn ra không phải giữa các đội quân chính quy, thường trực, mà bởi lực lượng lính nghĩa vụ đông đảo; những tâm hồn sáng tạo có khả năng bị cuốn vào quân dịch như những người hàng xóm của họ, một số người đã hăng hái bước vào trận chiến.
Otto Dix, một trong những nghệ sĩ vĩ đại nhất của nghệ thuật Đức hiện đại, đồng thời là một người yêu nước nhiệt thành, người đăng ký làm xạ thủ ở tuổi 23 vào năm 1914, đã chiến đấu trên cả hai mặt trận phía Đông và phía Tây và tại Somme, giành được Chữ Thập Sắt vì sự dũng cảm của mình. Cuối cùng ông đã ghê tởm và liên tục tạo ra những hình ảnh đáng sợ nhất về xung đột vũ trang kể từ sau Thảm họa chiến tranh của Goya. Ông cũng tạo ra phong trào nghệ thuật của riêng mình, Neue Sachlichkeit; một hình thức châm biếm kỳ quái. Họa sĩ người Mỹ Marsden Hartley, hiện được coi là một trong những nghệ sĩ lớn của Mỹ đầu thế kỷ 20, đã chuyển đến Berlin vào năm 1913, và bị mê hoặc bởi cảnh tượng quân sự mà ông đã thấy ở đó. Sự mê hoặc nhanh chóng biến mất khi, như ông nói, sự thêu dệt của chiến tranh nhường chỗ cho một thực tế khủng khiếp.
Marsden Hartley ‘Hoạt cảnh trước chiến tranh’ 1913
Chiến tranh hiện đại không chỉ thay đổi tính cách của những người tham chiến mà còn thay đổi bản chất của nghệ thuật về chiến tranh. Trước năm 1914, nghệ thuật về chiến tranh có khuynh hướng mô tả các cuộc tấn công bằng kỵ binh kịch tính, các vị tướng hấp hối và những người đầu hàng. Các nghệ sĩ chính thức của Chiến tranh thế giới thứ nhất dân chủ hơn (Tommy Atkins và các đồng đội ở cấp dưới là những đối tượng điển hình hơn các Tướng Haig hoặc Foch), có bằng cớ hơn, và họ thường sử dụng các kỹ thuật chính thức mới mà họ phát triển: Bạn của Pound Wyndham Lewis, người từng là lính ném bom, đã đưa ra các nghiên cứu theo trường phái Vortic về các đơn vị pháo binh, David Bomberg và William Roberts cũng vậy. Roberts tiếp tục thực hiện một số minh họa cho Seven Pillars of Wisdom [Bảy trụ cột trí khôn] của TE Lawrence, có lẽ là cuốn sách vĩ đại nhất ra đời từ Đại chiến. Nhà điêu khắc duy nhất của phong trào Vortic, Henri Gaudier-Brzeska, đã bị giết trong cuộc chiến.
Sau chiến tranh là tang tóc và tưởng nhớ. Le Tombeau de Couperin của Ravel là một sự tưởng nhớ đến sáu người bạn của ông đã chết trong trận chiến; Variations for Orchestra (1926-28) của Schoenberg một phần được truyền cảm hứng từ thời gian ông phục vụ trong Quân đội Áo. Các nhà văn thuộc mọi quốc tịch, những người còn sống sót ít nhiều vẫn còn nguyên vẹn, bắt đầu sáng tác tiểu thuyết và hồi ký: Dưới hỏa lực của Henri Barbusse, Bão thép của Ernst Jünger, Tất cả lặng thinh trên mặt trận phương Tây của Erich Maria Remarque và Vĩnh biệt mọi thứ của Robert Graves. Ngoài Jünger ra, không ai trong số họ tin rằng đổ máu là thứ gì khác ngoài sự điên rồ quái dị. Ezra Pound đã nói lên nhiều điều trong bài thơ năm 1919 của ông, Hugh Selwyn Mauberley, trong đó than khóc về cái chết của “vô số”, bao gồm cả “người tốt nhất” trong thế hệ của họ, và mâu thuẫn gay gắt với ‘Dulce et decorum est pro patria mori’ của Horace (Ngọt ngào và đúng đắn khi chết cho đất nước của mình). Nghệ thuật của Chiến tranh thế giới thứ nhất có rất nhiều mặt, và không thể tóm gọn đầy đủ trong một hoặc hai công thức đơn giản, nhưng có lẽ phẩm chất quan trọng nhất của nó là tính đe dọa. Nó cảnh báo chúng ta về chính chúng ta.
Nguồn: Sotheby’s
Lược dịch bởi Viet Art View