Odilon Redon ‘Những chú bướm’ (1910). Bộ sưu tập của MoMA.
“Mọi người sợ thủy tinh, mọi người sợ cá mập, mọi người yêu bướm”, Damien Hirst cho biết khi giải thích về việc ông thường xuyên kết hợp các sinh vật có cánh tao nhã vào tác phẩm của mình.
Bướm xuất hiện sớm trong sự nghiệp của Hirst, với tác phẩm In and Out of Love (1991) [Trong và ngoài tình yêu], mời người xem chứng kiến vẻ đẹp thoáng qua của cuộc đời loài bướm, xem chúng thoát ra khỏi kén, sống và chết.
Sau đó, trong tác phẩm I am Become Death, Shatterer of Worlds [Tôi trở thành Thần Chết, Kẻ hủy diệt thế giới] (2006), nghệ sĩ đã ghép gần 3.000 bộ cánh bướm thành hình ảnh kính vạn hoa.
Hirst có thể là nghệ sĩ đương đại nổi tiếng nhất sử dụng bướm trong tác phẩm của mình, nhưng việc tiếp nhận loài côn trùng này như một biểu tượng đã có từ thời cổ đại. Chúng tượng trưng một cách sống động cho cái chết, sự hồi sinh, bản chất thoáng qua của cái đẹp, thậm chí cả hôn nhân – trong những nền văn hóa trên thế giới.
MEMENTO MORI
Maria van Oosterwijck ‘Tĩnh vật hoa’ (1669). Được phép của Bảo tàng Nghệ thuật Cincinnati.
[Memento Mori: câu thành ngữ Latin, nghĩa là ‘Hãy nhớ rằng ngươi sẽ phải chết’]
Bướm có đôi cánh đầy màu sắc phức tạp và tuổi thọ rất ngắn, kéo dài vài tuần, cũng dễ hiểu tại sao chúng được chọn làm biểu tượng cho sự phù du của cuộc sống.
Họa sĩ của thời kỳ Hoàng kim Hà Lan Maria van Oosterwyck nổi tiếng với những bức tranh vanitas, những bức tranh nhắc nhở người xem về sự vô thường của những thứ xa hoa trên thế gian và bản chất vĩnh cửu của linh hồn.
Adriaen Coorte ‘Ba quả sơn trà và một chú bướm’ (khoảng 1705).
Oosterwyck cũng nổi tiếng là thường xuyên đưa những con bướm Đô đốc Đỏ vào những bức tranh quan trọng nhất của mình. Các học giả tin rằng những con bướm này là biểu tượng độc đáo về sự phục sinh của Chúa Ki-tô và lời hứa về cuộc sống vĩnh cửu. Sự biến đổi của một con sâu bướm thành một cái kén, rồi một con bướm, phản ánh một cách tượng trưng cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su.
Ở đây, màu đỏ và trắng của cánh bướm tượng trưng cho sự hy sinh thân thể của Đấng Ki-tô, và màu trắng, Chúa Thánh Thần. Oosterwyck không phải là họa sĩ duy nhất yêu thích loài bướm trong Thời kỳ Hoàng kim của Hà Lan: các họa sĩ tĩnh vật cùng thời, bao gồm Adriaen Coorte và Rachel Ruysch, cũng được biết đến với những bức tranh tuyệt đẹp mô tả loài bướm.
NHỮNG KỲ QUAN BÁCH THẢO
Maria Sibylla Merian, ‘Dứa (Ananas comosus) cùng vòng đời của bướm Dido Longwing (Philaethria dido)’. Bộ sưu tập của The Royal Trust.
Vào thế kỷ 17 và 18, giữa thời kỳ đỉnh cao của chủ nghĩa thực dân châu Âu, các nghệ sĩ và nhà tự nhiên học trên khắp thế giới đã bắt tay vào nghiên cứu chi tiết hệ động thực vật của những vùng đất tự do. Nhiều hình ảnh trong số này trông rất khoa học, thấm nhuần thị hiếu và tín ngưỡng văn hóa của quê hương các nghệ sĩ —đặc biệt là những mô tả của họ về loài bướm.
Cũng giống như cách mà các nghệ sĩ tranh tĩnh vật thời đại này kết hợp những con bướm bay lượn quanh những bó hoa, nhà tự nhiên học Maria Sibylla Merian cũng đưa chúng vào các bức tranh minh họa về hệ thực vật mà bà phát hiện khi đi du lịch ở Suriname năm 1699. Các bức tranh minh họa của bà đã trở nên nổi tiếng trong Metamorphosis Insectorum Surinamensium [Côn trùng biến thái ở Suriname], một tập sách được thèm muốn, mang vẻ đẹp lộng lẫy của cảnh quan thiên nhiên Suriname đến châu Âu — bao gồm nhiều loại ngài và bướm chưa được biết đến.
BIỂU TƯỢNG CỦA PHỤ NỮ VÀ HÔN NHÂN
Katsushika Hokusai ‘Mẫu đơn và Bướm’ (1833–34). Bộ sưu tập của Viện Nghệ thuật Minneapolis.
Ở Nhật Bản, hình tượng bướm có một lịch sử phong phú, chúng xuất hiện trên gia huy, trong giấy origami, trên các thiết kế kimono và trong các bản in khắc gỗ ukiyo-e [Phù Thế Hội] của thời đại Edo. Là biểu tượng của quá trình chuyển đổi từ một người con gái thành phụ nữ, bướm cũng gắn liền với nhiều khía cạnh của trình tự và trải nghiệm cuộc sống.
Yanagawa Shigenobu I ‘Hai vũ công trong trang phục bướm’ (khoảng thập niên 1820). Bộ sưu tập Bảo tàng Nghệ thuật Philadelphia.
Nghệ thuật gấp giấy origami nổi lên ở Nhật Bản vào những năm 1600; vào năm 1680, nhà thơ Ihara Saikaku nổi tiếng đã viết về giấc mơ những con bướm giấy. Trong lễ cưới của người Nhật, hai loại bướm origami, được gọi là Mecho (tượng trưng cho nữ) và Ocho (tượng trưng cho nam) được đặt tượng trưng trên các chai rượu sake.
Trong khi tranh vẽ bướm của Nhật Bản có niên đại gần một nghìn năm, các bản in khắc gỗ Phù Thế Hội cũng lấy bướm làm một chủ đề đặc biệt trong những hình ảnh mô tả chi tiết cuộc sống của gái điếm và nghệ sĩ biểu diễn. Các mô tả về bướm được thực hiện bởi các nghệ sĩ Edo nổi tiếng bao gồm Utagawa (Ando) Hiroshige và Yanagawa Shiganobu, với hình ảnh các vũ công trong trang phục bướm. Trong số những bức nổi tiếng nhất là Mẫu đơn và Bướm của Katsushika Hokusai, Claude Monet sở hữu một bản in này lưu giữ ở Giverny.
BÁO HIỆU CỦA SỰ THAY ĐỔI
Thomas Gainsborough ‘Hai cô con gái của họa sĩ đuổi theo một chú bướm’ (1756). Bộ sưu tập Phòng trưng bày Quốc gia.
Loài bướm mang một vẻ đẹp mỏng manh. Ngay từ cuối thế kỷ 18, các nghệ sĩ đã suy ngẫm về hậu quả của cuộc Cách mạng Công nghiệp, cả về môi trường và cách sống. Trong bức tranh của Thomas Gainsborough Hai cô con gái của họa sĩ đuổi theo một chú bướm (1756), chú bướm ở đây là báo hiệu của những nguy hiểm, nhưng đồng thời cũng là biểu trưng của hi vọng, một lời hứa với những cô con gái.
Trong các bức tranh của trường phái Ấn tượng sau này, bao gồm cả Buổi chiều Chủ nhật trên Đảo La Grande Jatte của Seurat, người ta có thể nhìn thấy những con bướm bay lơ lửng quanh khung cảnh nhàn rỗi của tầng lớp trung lưu — sự nhàn rỗi sinh ra từ Cách mạng Công nghiệp. Có thể khó tin, nhưng bộ cánh đen như bồ hóng của những con ngài là một sự thích nghi với ô nhiễm trong cuộc Cách mạng Công nghiệp Anh.
BIỂU TƯỢNG CỦA SỰ BIẾN ĐỔI
Jacques-Louis David ‘Cupid và Psyche’ (1817). Được phép của Bảo tàng Nghệ thuật Cleveland.
Trong thần thoại Ai Cập cổ đại, con bướm được liên kết với sự siêu việt của linh hồn đầu tiên. Niềm tin này đã được định hình thêm bởi những người Hy Lạp cổ đại.
Trong tiếng Hy Lạp, psyche là từ để chỉ cả con bướm và linh hồn, các mô tả về Psyche [Người yêu của Cupid] thường bao gồm cả con bướm vì lý do này.
Vincent van Gogh ‘Ngài công đại’ (Tháng năm 1889).
Những nền văn hóa cổ đại này nhấn mạnh các khía cạnh siêu việt trong sự tồn tại của loài bướm. Điều này thu hút cả những nghệ sĩ thời hiện đại. Ví dụ, nghệ sĩ Biểu tượng Odilon Redon đã dùng hình ảnh những con bướm cùng với vỏ các loài thân mềm và hoa để cho thấy những vật thể tự nhiên có thể truyền cảm hứng về một thế giới kỳ diệu. Còn Van Gogh thì dành trọn một series cho loài bướm, ông thấy ở chúng một lời hứa về khả năng thay đổi trong cuộc sống con người, với một thực tại tốt đẹp ở phía trước chúng ta.
Có lẽ là ví dụ sâu sắc nhất, Chân dung tự họa với Vòng cổ có gai và Chim ruồi (1940) của Frida Kahlo, hình ảnh họa sĩ đội vương miện những chú bướm cánh xanh. Đây là biểu tượng cho sự tái sinh của Kahlo, theo giải thích của các học giả, sau một tai nạn đã suýt giết chết bà khi còn trẻ. Ở đây, hình ảnh loài bướm gợi ra một khả năng gần giống như sống lại sau cái chết.
Nguồn: Artnet News
Lược dịch bởi Viet Art View