“Manga là ảo. Manga là [một] tình cảm. Manga là sự phản kháng. Manga thật kỳ lạ. Manga là bệnh hoạn. Manga là sự hủy diệt. Manga là sự kiêu ngạo. Manga là tình yêu. Manga là kitsch. Manga là [một] cảm giác về sự kỳ diệu. Manga là gì… vẫn chưa có một kết luận.”
OSAMU TEZUKA, NGHỆ SĨ MANGA NGƯỜI NHẬT
Tsukioka Yoshitoshi. Yoshitsune và Benkei đấu trên cầu Gojo (Gikeiki Gojobashi No Zu). Thời Minh Trị, cuối thế kỷ 19.
Những lời của họa sĩ Osamu Tezuka (1928 – 1989) mang một bí ẩn định nghĩa cho manga ngày nay. Bên ngoài Nhật Bản, khái niệm hiện đại về manga đã bước ra khỏi sự bó buộc về ngữ nghĩa, được sử dụng như một cách viết tắt cho tính biểu tượng đặc biệt của nó trong nghệ thuật đương đại.
Kitagawa Utamaro (1754-1806). Kẻ kiêu ngạo (Koman). Thời Edo, cuối thế kỷ 18.
Với lịch sử bắt nguồn từ Nhật Bản thế kỷ 12, loại hình nghệ thuật này đã trải qua một sự chuyển đổi mạnh mẽ từ những ngày đầu tiên của nó và kể từ đó đã mở rộng phạm vi ra ngoài truyện tranh và phim hoạt hình. Truyền thống ukiyo-e — Phù Thế Hội phổ biến trong Thời kỳ Edo (1603–1867) mang đến một cánh cửa cho văn hóa Nhật Bản, mô tả những cảnh đời thường, phong cảnh và văn học. Những bậc thầy vĩ đại về in khắc gỗ và hội họa, chẳng hạn như Katsushika Hokusai, Tsukioka Yoshitoshi và Shunbaisai Hokuei, kể những câu chuyện thông qua “những bức tranh về thế giới trôi nổi”, tôn vinh sự phù du và bí ẩn của cuộc đời. Các chủ đề phổ biến của bản in trên gỗ bao gồm chân dung phụ nữ, diễn viên kabuki nổi tiếng và đô vật sumo, phong cảnh hoặc cảnh biển hoành tráng, và các cảnh trong văn học dân gian hoặc thơ ca.
Manga và anime đều bắt nguồn từ nghệ thuật đồ họa của Nhật Bản và phương Tây. Những ý tưởng tạo hình mới từ bên ngoài Nhật Bản được lọc khi các tạp chí thế kỷ 19 mang những loại hình nghệ thuật non trẻ đến với các nghệ sĩ, rồi khi truyện tranh từ Bắc Mỹ được dịch và lưu hành vào thế kỷ 20. Những năm 1940 và 1950 đã chứng minh là bước khởi đầu, khi Tezuka sáng tạo những tác phẩm sống động pha trộn nhiều truyền thống đồ họa khác nhau, tiên phong cho sự lai tạo giữa Nhật Bản và phương Tây khiến công chúng thích thú, đầu tiên là ở Nhật Bản và sau đó là toàn thế giới.
Mr. ‘Vô đề’. 2011.
Takashi Murakami. Cô y tá KO. 2004.
Những hình ảnh mang ý nghĩa của hàng nghìn từ dựa trên kho biểu tượng sâu sắc của manga. Sự lo lắng, chuyển động, kích thích và sự lãng mạn được thể hiện qua phép chuyển nghĩa của hình ảnh. Một số đặc trưng của nhân vật manga: đầu to, mũi nhỏ, khuôn mặt tròn, trong đó ôi mắt to tròn là dấu hiệu phân biệt của loại hình nghệ thuật này, giống như một lỗ hổng cho cảm xúc, tư duy và tính cách nhân vật. Đôi mắt khác nhau về tỷ lệ và các dấu hiệu, hình dạng của mắt cũng nói lên nhiều điều, sự ngây thơ và thuần khiết khi hướng xuống, trong khi góc cạnh gợi ý sự ác độc và ngạo mạn.
Hikari Shimoda. Chân dung tự họa #3. 2009.
Manga đã vươn ra toàn cầu và đối với nhiều thế hệ nghệ sĩ trên khắp thế giới, nó đã gắn liền với trí tưởng tượng và ký ức tuổi thơ. Kết quả là, ngôn ngữ hình ảnh đặc biệt đã được tiếp nhận, nội tại hóa và thể hiện trong tính thẩm mỹ của nghệ thuật đương đại.
Stickymonger. Vô đề. 2019.
Hình tượng sâu thẳm, đôi khi đen tối, vượt ra ngoài khuôn mặt, thường biểu thị những cảm xúc sâu sắc. Hiệu ứng cái chết trở thành một chủ đề, với những nhân vật không cảm xúc, bị thương hoặc bị chiếm hữu bởi một linh hồn cao hơn. Như trong Chân dung tự họa #3 (2009) của Hikari Shimoda. Thoạt nhìn, chủ thể của bức tranh có vẻ là một cô bé sơ sinh với đôi mắt trũng sâu. Tuy nhiên, những nét vẽ rung động về một thế giới khác lại là một bài bình luận được che đậy về những xung đột và đấu tranh trong xã hội hiện đại. Đứa trẻ, trong trường hợp này, đóng vai trò như một biểu tượng của những gì Shimoda mô tả là “vô số khả năng; nơi tưởng tượng gặp hiện thực, quá khứ gặp tương lai, cuộc sống gặp cái chết”.
Stickymonger. Vô đề. 2019.
Hình tượng sâu thẳm, đôi khi đen tối, vượt ra ngoài khuôn mặt, thường biểu thị những cảm xúc sâu sắc. Hiệu ứng cái chết trở thành một chủ đề, với những nhân vật không cảm xúc, bị thương hoặc bị chiếm hữu bởi một linh hồn cao hơn. Như trong Chân dung tự họa #3 (2009) của Hikari Shimoda. Thoạt nhìn, chủ thể của bức tranh có vẻ là một cô bé sơ sinh với đôi mắt trũng sâu. Tuy nhiên, những nét vẽ rung động về một thế giới khác lại là một bài bình luận được che đậy về những xung đột và đấu tranh trong xã hội hiện đại. Đứa trẻ, trong trường hợp này, đóng vai trò như một biểu tượng của những gì Shimoda mô tả là “vô số khả năng; nơi tưởng tượng gặp hiện thực, quá khứ gặp tương lai, cuộc sống gặp cái chết”.
Okokume. Vô đề 2. 2019.
Tác phẩm Vô đề 2 (2019) của Okokume, nghệ sĩ sinh ra ở Tây Ban Nha, khắc họa nhân vật nổi tiếng nhất của cô, Cosmic Girl [Cô gái Vũ trụ]; với làn da màu ngọc lam, mái tóc như kẹo bông, du hành xuyên không gian để cứu môi trường, một hành động trước cuộc khủng hoảng khí hậu hiện nay. Tương tự, tác phẩm của Hideaki Kawashima, Yên lặng (2009) là hiện thân của bản chất người phụ nữ, một nhân vật nữ tính trong truyền thống của anh, với đôi mắt hạnh nhân, đôi môi nhạt màu cùng mái tóc dài xõa xuống bảng màu lặng lẽ. Yếu tố siêu thực được phản chiếu trong tác phẩm của Roby Dwi Antono – Kin (2020) của nghệ sĩ Indonesia, nơi một sinh vật vô định hình với đôi mắt giống hình đĩa bay nhìn vào không gian, mời người quan sát vào một vũ trụ vô định. Cách thể hiện của Antono là lời ca ngợi thời thơ ấu, nơi những sinh vật tưởng tượng tồn tại bên cạnh thú nuôi như mèo và chó.
Hideaki Kawashima. Yên lặng. 2009.
Ảnh hưởng của manga và anime thể hiện rõ ràng trong nghệ thuật và văn hóa đại chúng. Các nhân vật trẻ thơ của nó đã trở nên dễ nhận biết và tính thẩm mỹ kawaii (dễ thương) đã được triển khai vào các thiết kế đồ chơi, túi xách và các hàng hóa thương mại khác. Mặc dù nguồn gốc của nó có thể xuất phát từ bản chất ngắn ngủi của đời sống hằng ngày, nó tồn tại nhờ tính thẩm mỹ sâu rộng — giữa thời đại và văn hóa, nhiều thập kỷ và địa lý, và hấp dẫn tất cả mọi người.
Roby Dwi Antono. Kin. 2020.
Nguồn: Sotheby’s
Lược dịch bởi Viet Art View