Cách đây 30 năm, vào ngày 26 tháng 12 năm 1991, nhà nước Liên Xô đã tuyên bố kết thúc sau hơn 70 năm tồn tại với biết bao vinh quang và cay đắng, để lại khoảng trống và sự hỗn loạn về chính trị, văn hóa, nghệ thuật kéo dài tới tận hôm nay. 30 năm – quãng thời gian đủ gần để còn nhớ những ký ức tương đối rõ nét, nhưng cũng đủ xa để có thể rút ra những bài học cần thiết cho hôm nay và mai sau.
Về nghệ thuật Liên Xô, dù phát biểu dưới bất cứ hình thức diễn ngôn nào, không ai có thể phủ nhận sự đặc sắc có một không hai của nó trong lịch sử nghệ thuật loài người với sức ảnh hưởng ở quy mô toàn cầu trong thế kỷ XX. Một cái nhìn khách quan về nghệ thuật Liên Xô là một công việc khó khăn đối với bất cứ nhà nghiên cứu nào, dù ở Nga, phương Tây hay Việt Nam, bởi di sản chính trị- xã hội của nhà nước này vẫn tác động đến thế giới hiện tại, khiến người ta dù ít hay nhiều không khỏi không rơi vào định kiến. Về cơ bản, khi nhắc đến nghệ thuật Liên Xô, người ta thường nhớ ngay đến “Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” (Социалистический реализм), một trào lưu lan tỏa khắp các nước xã hội chủ nghĩa nửa sau thế kỷ XX. Nhưng ngoài xu hướng chủ đạo này, nghệ thuật Liên Xô còn có những đóng góp quan trọng khác mà trước đây, vì một số lý do, đã không được công nhận xứng đáng ở Việt Nam và ngay chính trên quê hương của nó.
Hiện thực xã hội chủ nghĩa – dòng chủ lưu
Thuật ngữ “Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên được nhắc tới vào ngày 23/05/1932 bởi Ivan Gronsky trên báo Văn học, sau đó được chính quyền Xô viết sử dụng thành một chủ trương chính thống trong sáng tác và phê bình văn học nghệ thuật, ở mọi lĩnh vực từ văn học, kiến trúc, hội họa, đến âm nhạc, điện ảnh…
Hiện thực xã hội chủ nghĩa là lựa chọn tất yếu, phù hợp với quan điểm triết học, chính trị, xã hội của chủ nghĩa cộng sản, như Marsim Gorky nói: “Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa khẳng định tồn tại như là hành động, như là sự sáng tạo, với mục tiêu khơi dậy và phát triển liên tục những khả năng cốt lõi của con người vì sự chiến thắng sức mạnh thiên nhiên, vì bảo vệ sức khỏe và kéo dài tuổi thọ, vì hạnh phúc lớn lao trên khắp trái đất, mà mỗi con người là một thành phần trong sự thống nhất của đại gia đình nhân loại”.
Quan điểm nhân văn và trân trọng nhân dân lao động đó thực ra không chỉ đến thời xã hội chủ nghĩa mới xuất hiện. Lùi lại thời điểm trước khi cách mạng nổ ra, từ cuối thế kỷ 19, nghệ thuật của đế chế Nga đã sản sinh ra một thế hệ vàng các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ hiện thực bậc thầy. Trong mỹ thuật có thể kể đến phong trào Lưu động (Передвижники), hướng đến đề tài cuộc sống và cảnh quan gắn liền với nhân dân Nga, tiêu biểu là các họa sĩ như Repin, Surikov, Shishkin, Perov, Kramskoy… Những họa sĩ này đã tổ chức các cuộc triển lãm lưu động thường xuyên, quảng bá nghệ thuật cho nhân dân lao động thay vì chỉ dành cho giới quý tộc, tư sản trước đó. Phong trào Lưu động đã có ảnh hưởng sâu rộng tới giới mỹ thuật cũng như ngấm ngầm ăn sâu vào nhận thức văn hóa của nhân dân Nga. Thực ra, nó kéo dài tới tận năm 1923 mới kết thúc. Vì vậy, với một nhà nước có lý tưởng phục vụ nhân dân lao động thì việc lựa chọn chủ nghĩa hiện thực là điều rất dễ hiểu. Cho đến tận ngày hôm nay, nhiều người vẫn coi Nga là thành trì của chủ nghĩa hiện thực và nhân văn, đối lập với những cơn bão dồn dập của nghệ thuật đương đại, thì có lẽ nguồn gốc đó không hẳn từ thời Liên Xô mà từ thời đế chế Nga.
Các nguyên lý cơ bản của hiện thực xã hội chủ nghĩa là:
Thứ nhất, các tác phẩm nghệ thuật phải phù hợp với thẩm mỹ số đông của quần chúng nhân dân, sử dụng các chất liệu dân gian và phổ biến. Lenin nói rằng: “Nghệ thuật thuộc về nhân dân. Nguồn gốc sâu xa nhất của nghệ thuật phải được cảm thấy và tìm thấy trong cuộc sống của nhân dân lao động”. Một ví dụ nổi bật cho nguyên lý “nghệ thuật phục vụ nhân dân” là năm 1932 khi kiến trúc sư nổi tiếng đương thời của Pháp là Le Corbusier trình bày đồ án Cung Xô viết ở Moskva với phong cách hiện đại, Stalin trả lời rằng: “Tôi không phải là một kiến trúc sư, tôi không biết nhiều về kiến trúc, nhưng tôi biết chắc rằng người dân Liên Xô không đánh giá cao nó”. Và quan điểm của Stalin không phải là không có lý khi ta nhìn lại kiến trúc, đô thị và hội họa hiện đại khắp các nước tư bản phương Tây là “na ná” nhau, rất khó phân biệt tính dân tộc, còn nghệ thuật của Liên Xô, nhất là giai đoạn Stalin cầm quyền, lại có đặc trưng riêng khó nhầm lẫn.
Thứ hai, nghệ thuật phải cho thấy cuộc sống thanh bình của người dân, để họ chiến đấu vì một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn cho tất cả mọi người. Những đề tài mỹ thuật của Liên Xô thường là cuộc sống thực của nhân dân, là chiến đấu và xây dựng tổ quốc. Đặc biệt tranh cổ động là thể loại được đẩy lên trình độ cao, một “đặc sản” chỉ có ở các nước xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, chúng ta có thể cho rằng nguyên lý thứ hai này cứng nhắc và phiến diện, nó không cho phép nghệ sĩ khai thác hết những mặt trái của xã hội hay góc khuất của tâm hồn, tuy nhiên ta cũng phải công nhận rằng nó cũng có ưu điểm khi yêu cầu nghệ thuật phải mang tính nhân văn, khơi gợi những điều tốt đẹp cho con người và xã hội. Nếu chúng ta so sánh các tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa với không ít các tác phẩm đương đại trên khắp thế giới kiểu như ngâm phooc-môn thai nhi, bãi phân, cục đá, hoặc lổn nhổn những cái dương vật vô hồn… thì có thể ghê sợ và ngán ngẩm ngay lập tức những kẻ “đương đại” vô đạo và thô thiển kia.
Thứ ba, nghệ thuật phải thể hiện được quá trình phát triển một cách biện chứng duy vật, mọi chi tiết trong tác phẩm đều có thể lý giải được. Điều này chúng ta có thể thấy rõ trong cách xây dựng hình tượng nhân vật luôn gắn với ngữ cảnh xã hội trong tiểu thuyết và điện ảnh, hoặc cách bố cục rất chặt chẽ trong kiến trúc và hội họa. Đặc biệt, đối với lĩnh vực phê bình nghệ thuật, cho tới ngày hôm nay, nguyên lý thứ ba này vẫn còn nguyên tính thời sự. Chúng ta không thể phê bình thỏa đáng bất cứ một tác giả hay một tác phẩm nghệ thuật nào nếu như không đặt nó trong bối cảnh lịch sử xã hội. Mặc dù nghệ thuật không phải lúc nào cũng lý tính và khả tri, nhưng nếu không có những “định kiến” hay “nguyên tắc đạo đức” để phản tỉnh sự hư vô “lơ lửng” thì nguy cơ biến nghệ thuật thành trò vui dễ dãi, thậm chí “rác rưởi” là có thật và đang xảy ra với một bộ phận nghệ thuật đương đại ngày nay.
Ngoài ra, tính hoành tráng cũng là một đặc điểm của hiện thực xã hội chủ nghĩa Liên Xô với những tượng đài vĩ đại như “Mẹ Tổ quốc kêu gọi” ở Volgograd, những tiểu thuyết sử thi hoành tráng như “Sông Đông êm đềm”, những công trình đồ sộ như “Tòa nhà Đại học tổng hợp Moskva”. Niềm tin vào sức mạnh quần chúng nhân dân, của quốc tế vô sản và tính cách cởi mở, đại đồng của người Liên Xô có lẽ đã khuyến khích quan điểm về cái đẹp ở quy mô lớn.
Sau khoảng 60 năm đội vòng nguyệt quế, hiện thực xã hội chủ nghĩa kết thúc sứ mệnh lịch sử của mình khi Liên Xô sụp đổ. Kể từ đây, tuy không còn ở vị trí chính thống nhưng tinh thần của hiện thực xã hội chủ nghĩa vẫn rất mạnh mẽ trong không gian hậu Xô-viết, có ảnh hưởng nhất định đến thế giới đương đại. Sắc thái hiện thực cũng được thay đổi, không rõ ràng, cứng nhắc như thời Liên Xô, mà thêm vào tính hư cấu, chất thơ, chất hài, điều chúng ta vẫn nhận ra ở các tác phẩm của Zurab Tsereteli, Mikhail Shemyakin, Victoria Tokareva, Svetlana Alexievich…
Tượng đài “Mẹ Tổ quốc kêu gọi” ở Volgograd, 1967. Tác giả: Y. Vuchetich, N. Nikitin
Nghệ thuật Tiên phong trước 1932
Ngoài “đỉnh cao chỉ huy” hiện thực xã hội chủ nghĩa, nghệ thuật Liên Xô còn ghi dấu ấn với các trào lưu khác, trong đó có Tiên phong (Aвангард) và Kiến tạo (Конструктивизм), diễn ra sôi nổi vào những năm 1920.
Sau khi cách mạng tháng Mười thành công, một số nghệ sĩ theo xu hướng Tiên phong trước cách mạng thấy không thể dung hợp được với định hướng xã hội mới nên đành phải di cư sang Tây Âu và Hoa Kỳ như Kandinsky (1920), Lissitzky (1921), Chagall (1922), Rosenbaum (1926)… để rồi sau đó họ có những đóng góp quan trọng đối với nghệ thuật hiện đại, đương đại phương Tây nói riêng và nhân loại nói chung. Nhưng cũng có những người quyết định ở lại như Malevich, Bulgakov, Pasternak… và họ lúc thì âm thầm sáng tác, lúc thì mạnh mẽ đứng lên bảo vệ quan điểm nghệ thuật của mình, một quan điểm thiên về duy tâm và siêu hình, trái ngược với hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Thời gian đầu sau khi cách mạng nổ ra, dưới sự bảo trợ chính trị của Lenin và Trotsky, các họa sĩ, kiến trúc sư, nhà thơ tiến bước cùng nhân dân lao động, hừng hực khí thế xây dựng một nền nghệ thuật mới, đoạn tuyệt với chủ nghĩa kinh viện thời kỳ đế chế. Các nghệ sĩ đã cùng nhau thành lập những trào lưu mới như Tiên phong, Kiến tạo, Vị lai… với quan điểm tiến bộ, thể hiện một thời đại đang đổi thay, hướng tới tương lai. Trong suốt những năm 1920, những nghệ sĩ theo chủ nghĩa Kiến tạo đã thay đổi hoàn toàn quan niệm về kiến trúc, thiết kế đồ họa, phim ảnh. Họ cổ vũ áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong nghệ thuật, sử dụng các bố cục trừu tượng, gắn nghệ thuật với thời đại, phục vụ những nhu cầu mới của xã hội qua việc sử dụng thép, bê tông hay thiết kế những khu nhà tập thể đa chức năng… Điều đó cũng phù hợp với quan điểm của Lenin khi chuyển đổi kinh tế Nga từ một nước nông nghiệp sang công nghiệp. Chúng ta có thể hình dung trong con mắt những nghệ sĩ Nga lúc đó, việc xây dựng chính quyền Xô-viết là một dự án nghệ thuật quy mô lớn.
Sức mạnh chính trị của nghệ thuật được đẩy lên cao. Có lẽ, vì kinh ngạc trước những tác phẩm tiến bộ của nghệ sĩ Liên Xô mà giới văn nghệ các nước phương Tây giai đoạn trước 1930 về cơ bản là ủng hộ nhà nước xã hội chủ nghĩa non trẻ một cách nhiệt tình. Kiến trúc sư Le Corbusier đã nghĩ tới một siêu dự án giao thông- đô thị- kiến trúc nối Paris với Moskva. Thậm chí, đối thủ của Liên Xô là Đức Quốc Xã cũng phải ngả mũ trước nền nghệ thuật tươi mới này. Ông trùm tuyên truyền của Đức Joseph Goebbels khi xem “Chiến hạm Potemkin” đã nói với các nhà làm phim Đức rằng: “Hãy làm cho ta một Potemkin!”
Mô hình “Tượng đài Quốc tế thứ III”, 1919. Tác giả: V. Tatlin
Sóng ngầm giữa thế kỷ XX
Nhưng sau khi Stalin lên nắm quyền, định hướng mỹ thuật và kiến trúc Liên Xô quay ngoắt 180 độ. Stalin không thích những bố cục trừu tượng, ông yêu cầu kiến trúc tìm lại những đường nét lịch sử, còn mỹ thuật thì phải vẽ hiện thực để nhân dân lao động “dễ hiểu”. Malevich, ông tổ của nghệ thuật Tối giản và Tối thượng, buộc phải (hoặc tự mình) thay đổi phong cách để phù hợp với hoàn cảnh chính trị xã hội. Những bức tranh thời kì này của Malevich dù không thể bỏ qua những mảng màu hình học quen thuộc nhưng phải “chua” thêm hình thể người vào nữa để vẫn thấy chút gì đó “hiện thực”. Thú vị ở chỗ, chính sự thay đổi phong cách mang tính khiên cưỡng này lại cho ra đời một xu hướng mới mà các nhà phê bình hiện nay gọi là Hậu- tối thượng.
Trong kiến trúc, Stalin cho xây dựng những cao ốc nổi tiếng ở Moskva theo phong cách chiết trung, hồi cổ, sau này đã trở thành những công trình góp phần quan trọng tạo nên bản sắc của Moskva như Trường Đại học tổng hợp Moskva, Trụ sở Bộ Ngoại giao, Khách sạn Ukraina… Sau này, kiến trúc thời kỳ Stalin nắm quyền được các nhà phê bình gọi là phong cách “Đế chế Stalin”.
Về văn học, thời kỳ Stalin đã chứng kiến nhiều nhà thơ, nhà văn nổi tiếng phải đi cải tạo, và sang thời Khruschev, Brezhnev thì bị liệt vào thành phần “ăn bám xã hội”. Một số văn nghệ sĩ có thiên hướng trừu tượng, siêu hình, vị lai vẫn âm thầm sáng tác theo quan điểm cá nhân của mình dù không được xuất bản hay triển lãm. Đôi khi, các văn nghệ sĩ ở dòng chảy ngầm đứng lên bảo vệ quan điểm nghệ thuật của mình rất quyết liệt. Điển hình là trường hợp của nhà văn Bulgakov, tác giả của “Nghệ nhân và Margarita”, một trong những tiếu thuyết xuất sắc nhất thế kỉ 20. Khi cuộc tranh cãi về tư tưởng văn nghệ đang diễn ra gay gắt, Bulgakov không ngần ngại công bố những tiểu thuyết và những vở kịch đậm chất huyền ảo, tâm linh. Mặc dù các tác phẩm của nhà văn bị cắt xén, đình bản, nhưng thú vị ở chỗ, Stalin rất thích chúng. Chính vì thế khi Bulgakov làm đơn xin di cư sang nước ngoài, đích thân Stalin đã gọi điện cho nhà văn, khuyên ông ở lại.
Bản in tiểu thuyết “Nghệ nhân và Margarita” của M. Bulgakov lần đầu năm 1966
Nghệ thuật không chính thức Liên Xô giai đoạn 1960-1990
Khoảng cuối những năm 1950, những xu hướng phi chính thống, đối lập với hiện thực xã hội chủ nghĩa được tập hợp lại thành một trào lưu với tên gọi Nghệ thuật không chính thức Liên Xô (Неофициальное искусство CCCP), hi vọng sẽ được chấp thuận từ dàn lãnh đạo mới sau khi Stalin qua đời. Sau khi nắm quyền, Khruschev đã khai tử phong cách kiến trúc Stalin và yêu cầu các kiến trúc sư thay đổi theo hướng gần với kiến trúc các nước phương Tây hơn, tạo tiền đề cho phong cách kiến trúc Hiện đại Xô-viết tỏa sáng và kéo dài đến những năm 1990. Về cơ bản kiến trúc Liên Xô giai đoạn này tiệm cận với kiến trúc phương Tây, xuất hiện một số công trình táo bạo ở các nước cộng hòa xa trung tâm như Ukraina, Gruzia…
Nhưng thời cơ để thay đổi mỹ thuật lại không xuất hiện. Ngày 01/12/1962, tại nhà triển lãm Manezh ở Moskva đã diễn ra cuộc triển lãm kỷ niệm 30 năm thành lập Hội mỹ thuật Liên Xô mang tên “Thực tiễn mới”. Ở đó có trưng bày các tác phẩm của các họa sĩ Tiên phong với các bức tranh theo chủ nghĩa Tượng trưng, Hình thức và Trừu tượng. Khruschev, theo lời mời, cũng có mặt tại triển lãm. Ông đã nổi điên và không ngần ngại văng tục ngay tại triển lãm. Vị tổng bí thư đã nhận xét các bức tranh ngay tại triển lãm rằng: “Khuôn mặt quái quỷ gì thế này? Các anh không biết vẽ à? Cháu tôi nó còn vẽ đẹp hơn. Các anh có lương tâm hay không?” Hai tuần sau cuộc gặp, Khruschev phát biểu: “Các họa sĩ đã học tập bằng tiền của nhân dân, ăn bánh mì của nhân dân nên phải làm việc cho nhân dân. Các họa sĩ làm việc cho ai nếu như nhân dân không hiểu họ vẽ cái gì?”
Nhưng các nghệ sĩ vẫn tiếp tục con đường của mình. Giờ đây, ngoài tiếp nối truyền thống huy hoàng từ thời kỳ đầu cách mạng còn có cả sự giao lưu với nghệ thuật đương đại ở Tây Âu và Mỹ. Họ âm thầm tổ chức các cuộc triển lãm trong các căn hộ thay vì ở cung triển lãm hay bảo tàng. Những nhóm phái ở các thành phố lần lượt ra đời như nhóm Nonconformism Odessa, nhóm Khái niệm Moskva, nhóm Siberi Undergroud, nhóm Lianozov… Những đại diện tiêu biểu có thể kể đến Mikhnov- Boitenko, Sokolov, Kabakov, Khrusch… Khoảng những năm cuối 1980, nghệ thuật không chính thức dần được công nhận, đáng chú ý nhất là sự kiện đấu giá nghệ thuật đương đại Liên Xô của Sotheby ở Moskva năm 1988.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, các tác giả tác phẩm của trào lưu Nghệ thuật không chính thức bắt đầu được vinh danh tại Nga và các nước thuộc Liên Xô cũ, với điểm nhấn là các cuộc triển lãm đình đám tại các bảo tàng danh tiếng nhất ở Moskva và Saint Petersburg. Đặc biệt, ngày 01/12/2012, nhân kỉ niệm 50 năm sự kiện Manezh, nhà nước Nga đã tổ chức triển lãm “Manezh là thế đấy”, tập hợp lại các tác phẩm đã trưng bày ngày 01/12/1962 với lòng tri ân những nghệ sĩ dũng cảm tưởng như đã bị lãng quên.
Người bay trong tranh của mình, 1988. Tác giả: Ilya và Emilia Kabakov
Một vài nhận xét
Từ khúc tráng ca của nghệ thuật Liên Xô, một nền nghệ thuật độc nhất vô nhị trong lịch sử thế giới bởi các điều kiện chính trị xã hội, các nguyên lý mỹ học đã và có lẽ sẽ không giống với bất cứ một thời đại hay không gian văn hóa nào khác, có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, ở bất cứ một nền nghệ thuật nào cũng đều cần có các xu hướng khác nhau để bổ trợ cho nhau, dù cho chính quyền có thể ủng hộ một xu hướng nào đó nổi trội theo mô hình “đỉnh cao chỉ huy”. Xu hướng Kiến tạo trước 1932 và Hiện thực xã hội chủ nghĩa sau 1932 là những “đỉnh cao chỉ huy” trong nghệ thuật Liên Xô.
Thứ hai, chủ nghĩa hiện thực không bao giờ chết, dù cho bị lép vế ở một thời kỳ nào đó, bởi nó luôn là một đối trọng cần thiết cho sự thay đổi chóng mặt các “xu hướng đương đại” mới. Sự bảo thủ đôi khi rất cần thiết để nghệ thuật không bị dễ dãi và tầm thường.
Thứ ba, chính trị không thể áp đặt ý chí của nó lên nghệ thuật một cách tuyệt đối. Dù có một chính quyền với bàn tay sắt như Liên Xô cũng không làm được điều đó. Ngay cả Stalin cũng phải tìm cách thả lỏng các xu hướng nghệ thuật phi chính thống trong một biên độ nào đó, điển hình là cách ông ứng xử với Bulgakov. Đôi khi, vùng phi chính thống sẽ đem lại vinh quang cho nền nghệ thuật ấy ở một thời điểm nào đó sau này.
Thứ tư, tư tưởng nghệ thuật không phải chỉ do những người làm nghệ thuật (các nghệ sĩ và các nhà phê bình) tạo nên. Ở Liên Xô, vai trò của các chính trị gia rất quan trọng trong việc tạo ra chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ở Nga hiện tại và các nước tư bản phương Tây, giới tài phiệt sưu tầm nghệ thuật đang tạo ảnh hưởng cho hướng đi của nghệ thuật, thông qua thị trường.
Thứ năm, tác phẩm nghệ thuật phải được tạo ra từ nhu cầu thiết yếu bên trong của người nghệ sĩ, như một nguyên lý quan trọng mà Kandinsky từng viết. Nếu người nghệ sĩ tạo ra các tác phẩm có xu hướng yêu nước, yêu chế độ, thì đó phải là tình yêu thực tâm từ đáy lòng. Hoặc nếu như tư tưởng mỹ học của người nghệ sĩ có khác biệt với tư tưởng chính thống thì đó cũng phải xuất phát từ tầng sâu bên trong con người mình chứ không phải do một yếu tố bên ngoài nào đó tác động. May mắn thay, nhiều tác phẩm của các xu hướng nghệ thuật Liên Xô đều được tạo ra từ nhu cầu thiết yếu bên trong của người nghệ sĩ, và với góc nhìn nào, quan điểm nào cũng xuất hiện những đỉnh cao.
Gần đây, có những ý kiến cho rằng ở những quốc gia mà nghệ thuật bị kiểm duyệt thì khó có tác phẩm đỉnh cao. Nhưng thực tế đã xảy ra ở Liên Xô cho thấy nhận định đó không hoàn toàn đúng, dẫu rằng môi trường hoạt động nghệ thuật “dễ thở” thì vẫn tốt hơn. Những kiệt tác được tạo ra không chỉ bởi môi trường chính trị, mà quan trọng hơn là cái nền văn hóa dân tộc, là ý chí dấn thân không biết mệt mỏi của người nghệ sĩ. Nghệ thuật Liên Xô đã chứng minh rằng, trong những tình huống kiểm duyệt ngặt nghèo nhất vẫn có kiệt tác ngoài lề, và trong môi trường tuyên truyền phô trương nhất vẫn có đỉnh cao chính thống.
Bài viết bởi tác giả Vũ Hiệp