Một trong những người trị vì lâu nhất trên thế giới, một trong những hoàng đế quan trọng nhất lịch sử Trung Quốc, Hoàng đế Khang Hy được ca tụng vì đã xây dựng nền tảng cho thời kỳ huy hoàng với đỉnh cao quyền lực và tầm ảnh hưởng của triều đại nhà Thanh. Nhà Thanh được thành lập năm 1644 sau cuộc chinh phục Trung Quốc của người Mãn Châu, lật đổ triều Minh suy yếu đã cai trị Trung Quốc từ năm 1368. Các nhà cai trị mới đã áp dụng có chiến lược những thông lệ và tên gọi có từ trước, lập nên Nhà Thanh, giữ các nguyên tắc và mô hình cũ. Khang Hy là hoàng đế thứ hai của Nhà Thanh trị vì toàn cõi Trung Quốc từ năm 1662 đến 1722, lên ngôi năm 7 tuổi sau cái chết của cha là Hoàng đế Thuận Trị (trị vì 1644-61) khi mới 23 tuổi.
Chân dung Hoàng đế Khang Hy mặc triều phục, Triều Thanh, đời Khang Hy. Bộ sưu tập của Bảo tàng Cung điện, Bắc Kinh.
Lên ngôi ngay sau cuộc chinh phục của nhà Thanh, Hoàng đế Khang Hy ngay lập tức được giao nhiệm vụ quân sự chinh phục quần chúng nhà Minh và củng cố quyền lực trên toàn cõi để hợp pháp hóa sự cai trị của nhà Thanh. Với mục đích trang bị tốt hơn cho bản thân nhằm cai trị đế chế đa đạo lý này, ông đã tiếp thu và học hỏi nhiều triết lý và niềm tin khác nhau. Là một nhà cai trị có tầm nhìn rộng và sự ham học hỏi, Hoàng đế Khang Hy đã kết hợp di sản Mãn Châu của riêng mình, truyền thống văn hóa lâu đời của Trung Quốc, cũng như khoa học và công nghệ phương Tây; tất cả đều được phản ánh trong nghệ thuật dưới triều đại của ông, với việc Hoàng đế cam kết hoàn thành vai trò là người bảo trợ cho nghệ thuật – một nghĩa vụ cũng như một đặc quyền đối với các nhà cai trị của Trung Quốc.
NGHỆ THUẬT TÔN VINH ĐẾ CHẾ MỚI
Mong muốn khám phá miền đất mới và thể hiện bản thân trước dân chúng, Hoàng đế Khang Hy đã tự giới thiệu mình với các thần dân Hán thông qua sáu chuyến khảo sát phương Nam nổi tiếng, diễn ra vào các năm 1684, 1689, 1699, 1703, 1705 và 1707.
Wang Hui 1632-1717, và những người khác. Chuyến Giang Nam tuần thị của Hoàng đế Khang Hy, phần thuộc cuộn thứ sáu: Từ thị trấn Benniu đến thành phố Thường Châu trên Đại Vận Hà.
Những chuyến Nam tuần trang nghiêm này đã đưa Hoàng đế và đoàn tùy tùng đông đảo về phía nam đến trung tâm kinh tế và văn hóa của Trung Quốc và đạt được kết quả kép, Hoàng đế hiểu về về địa chất, khí hậu, văn hóa và lịch sử của đế chế, đồng thời thể hiện quyền lực đế vương đối với thần dân. Hoàng đế Khang Hy đã cho những họa sĩ giỏi nhất của miền nam ghi lại và tôn vinh các chuyến Nam tuần, như các cuộn tranh nổi tiếng ‘Chuyến khảo sát phía nam’, một trong những hành động bảo trợ nghệ thuật đầu tiên của ông.
PHỤ KIỆN CỦA CÁC HỌC GIẢ
Việc củng cố quyền lực của người Mãn Châu cần có hướng dẫn của các trọng tài văn hóa. Nhận thức được sức nặng của lịch sử Trung Quốc và mong muốn một phẩm chất uyên bác, Hoàng đế Khang Hy đã bổ nhiệm những người có trình độ Hán học đến triều đình của mình để thảo luận về việc học và thư pháp. Là một họa sĩ và nhà thư pháp không thường xuyên, sự tinh thông văn học và thư pháp có tầm quan trọng lớn đối với Hoàng đế. Họa sĩ hoàng cung đã vẽ ông như một học giả truyền thống, trong trang phục Mãn Châu. Sự chú trọng học thuật và thư pháp thể hiện ở việc đánh giá ngày càng cao những đồ dùng để bàn- trong triều đại của ông chúng được coi là những tác phẩm nghệ thuật.
Chân dung Hoàng đế Khang Hy mặc thường phục, tay cầm bút lông. Nhà Thanh, đời Khang Hy. Bộ sưu tập của Bảo tàng Cung điện, Bắc Kinh.
ĐỒ SỨ HOÀNG CUNG
Các lò nung hoàng gia tại Cảnh Đức Trấn đã ngừng nhận đơn đặt hàng của triều đình trong những thập kỷ đầy biến động cuối triều đại nhà Minh và dưới thời trị vì của Hoàng đế Thuận Trị. Chúng đã được hồi sinh và xây dựng lại dưới triều đại Khang Hy để sản xuất số lượng lớn đồ sứ cần thiết cho hoàng cung ở Bắc Kinh. Đồ dùng nghi lễ bằng sứ đã được đặt cho ít nhất sáu trong số các ngôi đền và bệ thờ nhỏ của hoàng gia. Đồ sứ cũng cần thiết cho mục đích sử dụng triều chính và cá nhân của Hoàng đế, cũng như cho tất cả các quan chức và gia đình hoàng gia. Dưới sự chỉ đạo của Lang Tingji (1705-1712), đồ sứ chính thức đạt đến đỉnh cao về kỹ thuật. Những tiến bộ đáng kể đã đạt được trong đồ gốm màu xanh lam và trắng, tráng men trên men (đặc biệt là trong bảng màu famille-verte với các dải màu vàng, lam), và trong men đơn sắc, đáng chú ý nhất là men màu đỏ đồng, nổi tiếng là khó kiểm soát và chưa thể làm chủ từ đời Minh Tuyên Tông (1426-1435). Điểm đặc biệt nhất trong số các loại men màu đỏ đồng là loại men được gọi là men ‘hoa đào’ được sản xuất với sắc tố đồng đặc trưng bởi các tông màu đỏ và xanh lục loang.
Các lô đấu giá ‘Đồ sứ thời Khang Hy – bộ sưu tập tư nhân’ Sotheby’s 22/09/2022.
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Hoàng đế Khang Hy bẩm sinh là người ham học hỏi và có tư duy khoa học. Nghệ thuật từ triều đại của ông phản ánh sự nắm bắt công nghệ và kỹ thuật mới. Các nhà truyền giáo Dòng Tên châu Âu, những người đã đến Trung Quốc từ cuối thế kỷ XVI, đã có ảnh hưởng đáng kể đến nghệ thuật và học thuật tại triều đình trong thời kỳ này. Một số đã giành được sự bảo trợ của các quan chức cấp cao, tiếp tục đảm bảo các vị trí trong triều đình. Bị ấn tượng bởi kiến thức của họ về toán học và lịch, Hoàng đế Khang Hy ban đầu có thiện cảm với những người truyền giáo này. Tuy nhiên, với việc Giáo hoàng của Rome lên án các nghi thức thờ cúng tổ tiên của người Trung Quốc là không phù hợp với đạo đức Cơ đốc, Hoàng đế Khang Hy chỉ cho phép những người có kỹ năng và kiến thức kỹ thuật ở lại triều đình. Một trong những thành tựu to lớn của ông là thành lập Xưởng Cung đình (Zaobanchu), nơi quy tụ các nghệ nhân châu Âu để cùng với các đối tác Trung Quốc sản xuất các dụng cụ khoa học, đồng hồ và đồ sứ tráng men cho triều đình. Việc giới thiệu công nghệ tráng men mới của các tu sĩ Dòng Tên đã truyền cảm hứng cho một cách tiếp cận hoàn toàn mới đối với đồ sứ trang trí, kim loại và thủy tinh với sự ra đời của men falangcai, tiếp tục phát triển trong các triều đại Ung Chính (1723-35) và Càn Long (1736-95) tiếp theo.
Một chiếc bát tráng men falangcai thời Khang Hy.
Nghệ thuật thời Khang Hy đã chứng kiến sự hồi sinh của các tác phẩm đặt hàng, truyền tải sự huy hoàng của triều đại mới, thường bám sát các lý tưởng Nho giáo và mỹ học Hán-Trung của các triều đại trước. Những tác phẩm nghệ thuật này cho phép Hoàng đế Khang Hy thể hiện sự liên tục về tư tưởng và văn hóa giữa triều đại nhà Thanh và những người tiền nhiệm, đồng thời thu hút sự chú ý đến sự ổn định và thịnh vượng mà đế chế đạt được dưới sự cai trị của ông. Đồng thời, sự quan tâm nâng cao kiến thức trong các lĩnh vực nghệ thuật, văn học và khoa học của ông được thể hiện qua nỗ lực thúc đẩy đối thoại với các vị khách quốc tế của triều đình, thành lập các Xưởng Hoàng gia, và bổ nhiệm các học giả- quan lại và những người giám sát lão luyện. Các loại đồ dùng học giả được sản xuất dưới triều đại của ông, đặc biệt là bộ bình tráng men hoa đào để bàn, là biểu tượng cho hành trình tìm kiếm kiến thức của Hoàng đế và mức độ thành thạo kỹ thuật và nghệ thuật đạt được dưới triều đại của ông. Theo những cách này, hoàng đế Khang Hy đóng vai trò như một hình mẫu cho việc quản trị và bảo trợ nghệ thuật và học thuật mà những người kế vị của ông sẽ tuân theo cho đến cuối triều đại nhà Thanh vào năm 1911.
Nguồn: Sotheby’s
Lược dịch bởi Viet Art View